Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Kinh Pháp chơn truyền Đức Sơ Tổ Đạt Ma (phần2)

Tiep theo phan 1...

Người thông tánh mạng sớm tự ban.
Tầm mối Tiên thiên thấy rõ ràng.
Thần Thánh người người đều có phận.
Quang minh đường cả thấu Tây- phang.

Ngâm rồi Lão Tổ đằng vân đi mất, Thần Quang cúi lại thinh không mà bài tỏ hồng ân giáo huấn. Lạy rồi thì ngâm 8 câu thi rằng:

Nhờ công dạy bảo đạo làm nên.
Chạm cốt muôn đời nghĩa chẳng quên.
Bàng chánh hiểu thông gìn chặc dạ.
Giả chơn phân rõ chí tâm bền.
Kim – Lăng dìu dắt trăm muôn chúng.
Hùng Nhĩ công thành tạc tuổi tên.
Nhớ lại ngư ông qua bỉ ngạn
Ghi lòng tạc dạ rán lo đền

Ngâm rồi Thần Quang nói rằng:”Ta vì việc sanh tử tánh mạng mà được rõ mối chơn truyền, nơi Hùng-Nhĩ-Sơn dày công khó nhọc mới được rõ ràng một mối. Cám ơn thầy hằng lo dạy bảo cho ta ra khỏi biển khổ mê tân, thân được về chánh giáo mới thấy thiệt từ một mối mà đặng thông hiểu muôn ngàn. Rồi ta sẽ chỉ bảo người sau cho được gần cửa Phật mà dẫu có vàng rồng muôn lượng cũng khó mua, dành cho chúng sanh những người thành kính, bỏ quấy theo chơn mà qua bỉ ngạn. 

Nay ta thấy nẻo luân hồi lục đạo chẳng nỡ để đống xương người chết phơi như núi, mà ta muốn lậu hết thiên cơ nhưng chỉ e luật trời khó trốn. Vậy nên ta phải chỉ dạy người sau nữa mờ, nửa sáng tùy theo kẻ tu hành để giữ lại chút huyền cơ cho chúng tu hành, tự ngõ cầu Minh sư chỉ điểm Huyền Quang, có may thì được hưởng cảnh thanh nhàn nơi Cực lạc.
Phật pháp phân minh nói chẳng cùng, một cuốn Tâm kinh, Chơn tự kinh, Tứ tự kinh, Hữu tự kinh, đều vốn tùng theo kinh Vô tự mà có. Thức tỉnh nam kha, người phải được trải qua nhiều giấc mộng. Thần Quang nói rồi ngâm lời kệ rằng:

Đại Hải ba trung nhứt tiểu đăng
Vô nhơn cắt khởi bất phân minh
Nhược ngộ Minh sư thân chỉ điểm
Lý đầu chiếu kiến ngoại nhơn đầu .
Giải nghĩa xuôi:
Biển rộng ngọn đèn soi khó sáng
Không người chỉ lối chẵng biết đường 
Nếu được Minh sư gần chỉ dẫn
Trong đầu soi thấu ngoại đầu người

Cái lý như vầy: Ngọn đèn trọng lượng nhỏ, nên ánh sáng phải bị lu mờ nếu không được người thông tỏ sáng, định được phong ba thì tự nhiên đèn tỏ; hay cũng nhờ ở trong nhà tối, mà có người dám mở cửa sẽ thấy được mọi người đi ngoài lộ. Tóm lại là nói: phải có Minh sư mở cái Huyền quang khiếu thì mới được đắt đạo vậy.
Ngâm thi rồi Thần Quang trở lại Vương xá thành.

- Nói về Lão Tổ từ khi truyền đạo cho Thần Quang rồi, từ giã Hùng Nhĩ Sơn vân du khắp nơi để dưỡng tánh. Ngày kia gặp một người đạo sĩ, đạo hiệu là Tôn Hoành thấy Lão Tổ ngồi tịch nhiên bất động, bèn ngâm bốn câu thi:

Bốn mùa thong thả chốn non xanh
Học đạo Tiên gia luyện ngũ hành
Tát biển, dời non trong nháy mắt
Mới hay phép lạ của Tam Thanh

Tôn Hoành ngâm rồi nói rằng:” Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần kinh”. Người tu hành mà không đủ đức hạnh, thì chẳng phải người ở ngoài thế
Lão Tổ nghe rồi, cũng ngang nhiên bất động, chẳng nói chẳng rằng chi hết.
Tôn Hoành lại nói nữa, để kiếm lời ghẹo Lão Tổ: ”Những người xuất gia đầu Phật phải siêng năng mau mắn, đối đáp như nước chảy mây trôi, có đâu ngồi làm thinh như cờ bị vây tứ phía, thì đó chẳng phải là người xuất gia tu hành.
Nghề nghiệp của ông thầy chùa là đánh đẩu, nhịp sanh, khải đờn tỳ bà, dộng chuông, đánh trống, tuy cũng có diệu ý mà hườn lại không ích gì. Ta nay đến hỏi nhà ngươi, vậy chớ ông là hoà thượng thiệt hay hoà thượng giả?”
Lão Tổ trả lời rằng:”Người thiệt ta thiệt ta thiệt, người giả ta giả”
Tôn Hoành hỏi lại rằng:”Vậy chớ hoà thượng ở đâu đến đây?”
Lão Tổ đáp rằng:”Ta ở chùa Chơn không đến đây”.

Tôn Hoành nghe không hiểu những lời Lão Tổ nói, cho nên đứng suy nghĩ hồi lâu?
Lão Tổ trong lòng đã biết Tôn Hoành là người không có trí tuệ, nên nói thầm rằng: nếu ta nói ra cạn lẽ thì người này chắc ghét ta, mà ta cũng phải lẫn tránh đi, còn nếu người nghe được vài điều lành thì ta cũng làm được điều lành đó vậy.
Thôi, ta cũng nói chút đỉnh việc đạo lý nhưng tuỳ theo đó mà hỏi người, nếu người có nhìn nhận lời ta nói được, thì ta sẽ dạy cho vài đạo lý để tu hành. Lão Tổ nghĩ rồi, bước tới đứng trước mặt Tôn Hoành mà nói rằng:”Tôi chào Tiên sanh”.

Tôn Hoành lại hỏi: ”Hoà thượng hãy nói thiệt cho ta nghe, nhà ngươi ở đâu mà đến đây?”
Lão Tổ trả lời rằng:”lai xứ lai, hề lai xứ lai” nghĩa là “đến từ chỗ đến, vậy đến từ chỗ ấy đến”.
Tôn Hoành hỏi: ”Nói cái gì mà lạ vậy! Ta hỏi thì trả lời cho ta biết căn cước nhà cửa của hoà thượng định chắc ở chỗ nào, sao lại nói: lai xứ lai hề lai xứ lai, là cái giống gì?”
Lão Tổ nói:”Nếu muốn hỏi ta xuất gia tại đâu, cùng nhà cửa tại đâu khá nghe bài thi này thì rõ”. Nói rồi liền ngâm bốn câu thi:

Vì thương dân chúng mới ta bà
Chẳng thấp, chẳng cao cũng chẳng xa
Bằng hỏi ngã gia hà xứ tại
Không sanh không tử thiệt quê nhà

Tôn Hoành hỏi: ”Nói thiệt cho ta hiểu nhà cửa ở tại xứ nào, ở đâu mà lại chỗ ta đây?”
Lão Tổ đáp rằng: ”Té ra hồi nãy giờ những điều ta nói mà ngươi không hiểu chi hết, thôi để ta phân rõ cái lai lịch của ta cho nhà ngươi hiểu. Vốn ta là một thầy tu đi vân du phổ độ chúng sanh, nào có định chỗ ở tuỳ theo lỗ miệng đâu mà ứng đáp nói rằng hướng đông đến, hướng tây về? Huống chi ta vốn không dạ ưu sầu để vân du thiên hạ trong tứ đại bộ châu, thịệt là an nhàn khoái lạc. Nay bằng muốn hỏi thân ta thuộc về xứ nào, thì ta đáp rằng: Thường ở tại rừng Song-Lâm thọ tu hành, không chết cũng không sống”.

Lão Tổ nói rồi thì Tôn Hoành cũng không hiểu đặng lời của Lão Tổ nói, lại hỏi nữa: ”Hoà thượng tên họ là chi?” Lão Tổ trả lời rằng:”Ta họ là Tánh, tên là Vương tự là Không Minh”
Tôn Hoành nói:”Sách bá tánh ta từng đọc, sao không thấy chỗ nào nói họ Tánh?”
Lão Tổ nói:”Nhà ngươi chỉ biết bá gia tánh, chớ chưa biết bổn tánh. Nguyên hồi ban sơ trong buổi khai thiên lập địa, có một điểm chơn tánh mà trong đó trai và gái đều chẳng thiếu. Cái điểm chơn tánh đó người người đều có, mỗi thứ đều chẳng thề không, mà nó đã ngấm vào linh căn nên đều gọi đó là tánh Phật. Còn ta ở trong ngũ hành diện mạo chẳng đồng, lời nói cũng khác nhau cho nên người họ Trương, người họ Lý đều có chia ra chổ khác nhau: khác tên, khác họ cớ sao lại không nhìn ta là tu thiệt mà lại nhận cho ta là tu giả?”

Tôn Hoành hiểu chẳng ra cái lý nào của Lão Tổ nói, lại còn hỏi nữa: ”Nếu nhà ngươi muốn làm quen với ta, thì phải nói thật cho phân minh: nhà cửa ở đâu, tên họ là chi, ở tại chỗ nào mà đến đây mau mau khá lai tôn, khứ tích?”
Lão Tổ nói rằng:”Người có định chắc biết cái đạo của ta chưa, cái đạo của ta có một mà thôi”.
Tôn Hoành nói:”Hễ là lên núi là phải đi đến đỉnh, xuống biển thì phải đi đến đáy đó là lẽ tự nhiên. Nay ta hỏi hoà thượng nếu sơn cùng thuỷ cạn thì lạc về đâu? Như trả lời đặng thì ta thôi hỏi”.
Lão Tổ nói: Thôi bãi đi, ta chẳng cần nói cái lai lịch của ta làm chi cho lâu dài mà nhà ngươi không hiểu, để ta nói công việc của ta cho nhà ngươi rõ: vốn ta đi phổ độ nhơn sanh trong Trung Quốc, thừa việc gặp đây mới hỏi ngươi vài việc tu hành.

Tôn Hòanh hỏi: ”đường xá bao xa mà hoà thượng đến đây?”
Lão Tổ đáp rằng: ”mười muôn tám ngàn dặm”.
Tôn Hoành hỏi: ”vậy hoà thượng đi bao lâu mới tới đây?”
Lão Tổ trả lời rằng:” ta chỉ dùng có một giờ mà đi đến đây”
Tôn Hoành nói: ”mười muôn tám ngàn dặm mà sao đi mau dữ vậy?”
Lão Tổ nói rằng: ”ta đi vậy là còn chậm lắm, bởi vì ta mắc ghé Trung Quốc để quần sanh, có gặp một người tên là Đạt Ma Tổ Sư đi còn có nửa giờ mà tới mười muôn tám ngàn dặm đường đó”.
Tôn Hoành nói: ”hoà thượng đến đây có chuyện chi chăng?”
Lão Tổ nói:” ta nghe đồn cũng lâu, bên Đông Độ không người biết đạo nên ta đến truyền đạo, giáo hoá tu hành chẳng biết có ai hiểu ngày nay có bật Minh nhân cao sư đến đây chăng nhĩ?”
Tôn Hoành hỏi: ”hoà thượng có đạo chi, tu pháp chi mà dám đến chỗ này để xưng truyền đạo”?
Lão Tổ nói: ta đi vân du trong Hồ hải nào có tu pháp chi đâu”.
Tôn Hoành hỏi: ”đã không có tu pháp mà dám đến đây truyền đạo pháp chi sao?”
Lão Tổ nói: ”Thường khi rãnh thì ta giữ mình cho thanh tịnh, lúc mỏi thì đi ngủ, đói thì ăn một bát cơm, khát thì uống một bình nước, hễ người ta Phật thì mình cũng Phật còn nhắm người ta Tiên thì mình cũng Tiên; Còn ầm ầm sóng gió thì chẳng chèo thuyền ra biển cả”…

Lão Tổ đem đại đạo huyền cơ giáo lý nói cho Tôn Hoành một hồi, mà Tôn Hoành cũng chưa tỉnh ngộ. Lão Tổ nói: ”ta đến chốn này tTôn Hoành nói:” nhà ngươi nhứt khiếu chưa thông, ai tôn ngươi làm thầy mà hòng mơ ước?”
Lão tổ đáp rằng: ”sợ cho nhà ngươi một khiếu chưa thông, nếu nhà ngươi thông đặng một khiếu thì đường siêu sanh liễu tử thật chẳng khó, mà tự nhiên còn được chứng Phật thành Tiên nữa!”
Tôn Hoành nghe nói nổi giận mà rằng: ”thôi ta không diễn luận với nhà ngươi nữa, ngươi hãy đi đi cho rãnh”.
Lão Tổ nói:” lai thời chi hữu nhứt điều chánh lộ, khứ thời tiên hữu thiên vạn môn hộ, kiếu ngã như hà khứ đắc”. Nghĩa là lúc ta đến có một mối đường, nay ta trở về có muôn ngàn đường cửa, thì làm sao mà biết đi đâu cho được, xin người có lòng chiếu cố giúp dạy cho ta biết việc tu hành.
Tôn Hoành nói:” nếu ta cùng ngươi là một nhà thì ta giúp ngươi nào có khó, ngặt vì ngươi là đạo Phật, ta là đạo Tiên làm sao mà nói chuyện với nhau cho đặng”?

Lão Tổ đáp rằng:” buổi Tiên thiên (khí vô cực), đạo Phật, đạo Nho, đạo Tiên vốn thiệt là có một nhà, do người đời lầm lỗi nên mới chia ra làm ba mối, mà mỗi mối giáo việc hành đạo đều có phân biệt khác nhau, chớ cái lý thì in nhau chỉ có một”.
Tôn Hoành nói:” nếu muốn cho ta cứu ngươi thì phải tôn ta làm thầy, ta sẽ diễn ít lời cho ngươi hiểu”.
Lão Tổ nghe nói, đứng suy nghĩ một hồi rồi tưởng rằng: ”nếu ta không tôn ngươi làm thầy thì rất khó dắt ngươi bước tới, bằng tôn ngươi làm thầy thì e sợ ngươi bị tội nặng lắm! Nhưng thôi ta cũng ép mình mà độ ngươi kẻo uổng”. Nghĩ rồi bèn xuống thuyền qua sông, đến bờ rồi Lão Tổ bước lên thưa rằng: ”đệ tử vân du đến đây giữa lộ đồ, không có đèn nhang chi mà làm trọn lễ, đệ tử xin lấy đất làm hương tôn tiên sanh làm thầy chỉ dạy”.

Tôn Hoành nói:” đệ tử xin có lòng thành, thỉnh thầy ngồi trên cho đệ tử lạy ta 9 lạy”.
Tôn Hoành lúc này lối lắm, dám tự tôn lên ngồi trên bồ đoàn, đoan nhiên bất động để chịu cho Lão Tổ lạy 9 lạy. Trong lúc Lão tổ đang lạy thì Bát bộ thiên long giận lắm. Lão Tổ trong lòng thầm tưởng mà làm bài kệ rằng:

Quân tử tạm bần hườn hữu lễ
Tiểu nhơn sa phú tiểu khinh tâm
Nghĩa là: Người quân tử tạm làm nghèo để cho có lễ, tiểu nhơn tưởng mình giàu có mà đi dối thế, gạt lòng.
Trong lúc Bát bộ thiên long đang ở trên không trung giận lắm mà nói rằng:”tổ sư cúi lạy người, sợ người chẳng đặng mừng mà còn e người mang trọng tội, viễn tại lai sanh, cận tại thân. Nghĩa là xa thì đến kiếp sau, còn gần thì hành tội bây giờ lại còn cửu huyền, thất tổ lịch đại tiên vong sẽ bị đoạ xuống u minh giới cảnh”.
Lão Tổ đang hai gối quỳ xuống đất, thì Tôn Hoành kêu nói:” đệ tư hãy đứng dậy, nay ta cho nhà ngươi miễn lễ”.
Lão Tổ nói: ”đệ tử muốn cầu xin thầy giảng dạy ít điều Phật pháp cho minh bạch thì đệ tử đứng dậy mới được”.

Tôn Hoành nói: ”vốn ta chẳng muốn cứu ngươi là chính vì ta chẳng muốn ngó dòm mặt Phật, nay nhà ngươi quy y theo Phật luật của ta lấy chỗ nào mà thâu người vào cho đặng? Vốn ta thiệt là đạo Tiên, cái đạo của Đạo Tổ chuyên luyện yếu chỉ của Tam thanh, Ngũ hành mới là chánh lý, mà nay nhà ngươi đã cạo đầu làm thầy chùa rồi làm sao hiểu cho đặng. Còn nếu nhà ngươi tuân theo lời dạy của ta mà giữ đúng tam quy, ngũ giới và cũng chẳng nên quên ơn thầy thì ta mới khứng chơn truyền thiệt thọ cho”.
Lão Tổ nói:”Hà dám chẳng tuân lời, đệ tử nguyện theo tam quy ngũ giới và chẳng dám quên ơn thầy chơn truyền thiệt thọ”.

Tôn Hoành nói:” Nhà ngươi trước tuân tam quy ngũ giới hãy nghe ta phân: Quy y Phật là bất đọa địa ngục, Quy y Pháp là bất đoạ ngạ-quỷ, Quy y Tăng là bất đoạ luân hồi pháp luân thường chuyển. Truyền cho ngươi đặng công mãn ba ngàn, quả đầy tám trăm”. Tôn Hoành nói rồi bảo đệ tử hãy đứng dậy.
Lão Tổ nói:” đệ tử đứng dậy chưa được”
Tôn Hoành hỏi:”Tại sao đứng dậy chưa được”
Lão Tổ đáp rằng:”Bởi vì thầy chưa từng giải cho đệ tử minh bạch, vì cớ ấy cho nên đệ tử đứng dậy chưa được.
Tôn Hoành nói:”Ta đã giải tỏ cho ngươi hết rồi, sao còn gọi rằng chưa minh bạch.
Lão Tổ nói: ”Lúc đệ tử phổ độ bên Trung Quốc, thì đệ tử đã có diễn Tam bửu rồi, nay thầy giải cái lý hai chữ quy y cho đệ tử mà trong đó, âm đồng nhi tự bất đồng (nghĩa là tiếng đồng mà nghĩa chẳng đồng).

Tôn Hoành hỏi: ”Chỗ nào mà ngươi gọi rằng tam quy, tam bưủ?”
Lão Tổ trả lời rằng:”xin thầy ngồi lên nghe đệ tử đọc một khoản quy y Phật của đệ tử là: Quy y Phật chủ yếu là an định Tam tâm, tảo khai Lục dục, thừơng thanh, thường tịnh, bất loạn chơn chánh, ấy mới là quy y Phật vậy”.
Tôn Hoành hỏi:” còn quy y pháp ra làm sao?”

Lão Tổ đáp rằng”” Quy y pháp là: chẳng phải lễ chẳng nói, chẳng phải lễ chẳng làm, mình đừng làm việc gì ngoài ý tốt, miệng không nói lời kiêu căng, nói có phép, làm có phép tắc, mỗi việc làm đều chánh lý chẳng phạm phép nước bèn thiệt gọi là Quy y pháp”
Tôn Hoành hỏi:” Còn quy y tăng ra làm sao nữa?”

Lão Tổ đáp rằng:” Quy y tăng là cho nhứt thân được thanh tịnh, siêu thoát ra khỏi Tam giới nên cũng phải biết Pháp thân và an thân lập mạng tại chỗ nào; phải biết sanh tùng hà xứ lai, tử tùng hà xứ khứ; phải biết Sanh môn, Tử lộ nghĩa là: mình phải biết từ ở chỗ nào đầu thai đền, còn khi lúc chết thì sẽ đi về hướng nào, được sanh ra vào cửa nào, tử đi ra bằng cửa nào? Nên mọi thứ đều phải hiểu thấu hết phép thanh tịnh pháp tâm thì mới chứng được trường sanh sống hoài chẳng chết, ấy là Quy y tăng vậy.
Hồi nãy, tôi nghe thầy có giảng pháp luân thường chuyển, chẳng biết phép chuyển đó ra sao xin thầy giải nghĩa rõ?”

Tôn Hòanh nói: ”Sớm mai, niệm ba ngàn tiếng Hướng Phật, chiều niệm ba ngàn tiếng Á Phật, ấy là phép pháp luân thường chuyển vậy”.
Lão Tổ nói:” Nếu có sắc, có tiếng cũng đều gọi chẳng phải là thanh tịnh, ấy là phép niệm Phật đó thôi hà túc vi đạo, (sao cho đủ để làm đạo) sao gọi là pháp luân thường chuỷên cho đặng, nên cốt phải làm sao chẳng có niệm mà tự chuyển thì mới gọi là chơn truyền”.

Như bắt đầu từ hư vô Huỵêt lý, vận động thanh khí đi trên Thước kiều, dưới trọng lầu ( lưỡi và cuống họng), xuống Hoàng cung (tâm điền), qua Đơn điền, chuyển phương Thốn vào Vĩ lư quang, thông vào Hiệp tích, thấu đến Ngọc chẩm, thấu lên Thông thiên, rớt xuống Thất bửu, nhập vào Bửu tạng thấu đến núi Tu di; từ Tu di thấu đến Sơn lâm, từ Sơn lâm thấu lên núi Linh sơn; Ngoài Linh sơn là có 8 cung của Bát quái, đi tới 2 cung Khảm, Ly là tám muôn bốn ngàn Vô bồng, tả Tịch mịch thông vô Huyền quang khiếu, chậm rãi mà vững bước lên đỉnh Thiên thai (Nê hoàng cung)”

Tôn Hoành thầm tưởng một giây phút, rồi trách lấy mình rằng: ”ta ban đầu chê người một khiếu chưa thông, nào dè người ta trong ngũ tạng đều thông biết nhiều phép báu, mỗi việc đều rõ. Thiệt là người thanh cao minh khiến, khiến họ không chỗ nào mà chẳng thông, chẳng biết, mới hay ta có mắt mà không có con ngươi, uổng cho ta chịu người chin lạy làm cho ta ám ảnh tư tưởng. Càng nghĩ thì mình càng ăn năn đã muộn, nhưng việc cũng đã lỡ rồi, thôi ta cũng ráng gượng mà kêu người đứng dậy. Nghĩ rồi liền bảo: đồ đệ hãy đứng dậy đi.

Lão Tổ nói: ”Đệ tử đứng dậy cũng chưa được”.
Tôn Hoành nói: ”Tại sao mà đứng dậy cũng chưa được?”
Lão Tổ đáp rằng: ”Xin thầy từ bi mở mang cho đệ tử, bởi đệ tử có một việc huyền bí muốn được hiểu cho minh bạch”.
Tôn Hoành nói: ”có việc gì hãy nói đi”.
Lão Tổ hỏi rằng: ”chẳng biết từ xưa thầy đi truyền đạo mà thầy có hiểu mấy ông Trời chăng?”
Tôn Hoành nói: ”từ hỗn ngươn nhứt khí thì chỉ có một ông trời mà thôi”.
Lão Tổ nói: ”tôi luận trong việc tuần hườn, người người đều có một ông trời nên mọi người già, trẻ, trai, gái đều có một ông trời riêng hết”.
Tôn Hoành nói: ”ta vốn không có ông trời”
Lão Tổ nói: ”Nếu không có ông trời trong thân thời không hạp với Thiên lý, thì việc tu hành đâu có lý nào được liễu đạo”.
Tôn Hoành nói: ”nhà ngươi nói có thiên lý, khá nói lại cho ta nghe thử”.

Lão Tổ nói:” xin mời thầy ngồi bình yên, cho đệ tử nhứt nhứt thuyết minh. 
Lời xưa có nói: làm Phật, làm thầy, chẳng khá khinh dễ đạo (máy của tạo hóa) cũng chẳng nên truyền sái, nay tôi xin nói rành để thầy hiểu nhứt trú thanh hương. Nghe tôi bắt từ đầu, mỗi mỗi nói đều như vậy: Trời là một ông trời lớn, còn mỗi người là một ông Trời nhỏ.
Cho nên Trời có tám muôn bốn ngàn tinh tú, người có tám muôn bốn ngàn Hào mao khổng khiếu (lỗ chân lông). Trời có hai mươi bốn tiết khí của âm dương vận hành trong mười hai tháng, người có đại trường 24 khúc tiếp khí âm, khí dương làm thành bổn mạng. Trời có 18 độ sánh với người thì tiểu trường có 18 khúc, án 18 trọng địa ngục; Trời có 12 ngươn, người có yết hầu 12 điều, án một năm 12 tháng thiệt có tên là Trọng lầu.

Trời có năm sao Đẩu, sáu vì Tinh người có 5 tạng sáu phủ; trời có kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ án ngũ phương, người có đại trường, tiểu trường, bàng quang, đởm, thận tên là ngũ hầu; trời có sao đẩu hướng đông đến sao đẩu hướng tây là tám muôn bốn ngàn từng, nam đẩu đến bắc đẩu 10 muôn 9 ngàn 5 trăm từng, người có đơn điền phía bên tả là Tinh hải, phía bên hữu là Khí hải, Vĩ lư quang làm Huyết hải, Thiên-triều-huyết làm Cốt chỉ hải ấy có tên là Tứ hải. (bốn biển) 
Từ Đông hải đến Tây hải tám muôn bốn ngàn huyệt môn (cửa hang), Nam hải đến Bắc hải 10 muôn 9 ngàn 5 trăm huyệt môn; trời có sông Thiên hà tiếp sông Huỳnh hà ứng lên chót núi Côn lôn thanh hoán thuỷ đạo, người ngày đêm 12 canh giờ vận chuyển 36 độ, án 72 Hoả hầu. Người còn có Thiên căn tiếp với Địa căn, Thiên hà tiếp với Ngân hà, mỗi một tháng vận chuyển được 36 độ.

Trời có Thái âm, Thái dương soi chiếu thiên hạ, một ngày một đêm đi đến một muôn ba ngàn năm trăm độ, nếu đi thiếu một độ thì khí âm, khí dương liền điên đảo, người cũng có Thái âm, Thái dương soi khắp cả thân mình, mỗi một ngày một đêm đi một muôn ba ngàn năm trăm hơi thở, nếu đi thiếu một hơi thì có ba tai, tám nạn sẽ sẩy đến.
Ngày nay thầy đã có các kinh báu, sao chẳng giải nghĩa Lôi Tổ Kinh. Trong Lôi Tố Kinh đó có nói rằng: trong người mình có Cửu Linh sao thầy chẳng nhớ đó?”
Tôn Hoành nghe rồi lòng sáng ý tỏ, cúi đầu làm thinh rồi cúi lạy Lão Tổ 18 lạy, miệng thì ngâm kệ rằng:

Nay kính lạy thầy mười tám lạy
Miệng cầu xá tội châu lệ dầm
Tôi nay lầm nhập bàng môn đạo
Mắt lớn không tròng chẳng biết người
Vốn thiệt thầy là chơn La Hán
Chẳng biết vì sao xuống hồng trần
Cầu khẩn minh sư siêu tam giới
Chuyển đạo qua thiền thoát khổ luân.

Lão Tổ nói: ”Ban đầu ta tôn người làm thầy, ngày nay người lại tôn ta làm thầy thì ta đâu dám cả gan mà kêu lại nhà ngươi bằng đệ tử”.
Tôn Hoành nói: ”mong cầu thầy từ bi xá tội thì tôi nguyền làm môn hạ, tuy tôi đã vào đạo rồi mà chưa đặng chơn truyền. Nay nghe thầy giảng huyền cơ diệu lý, mà lấp đặng cái tệ ban đầu, cúi xin thầy từ bi tha tội cho đệ tử, bởi đệ tử có mắt rót hơn nửa năm, mà chưa có ai tôn ta lên làm thầy”. 
mà không có con ngươi, chẳng biết La Hán giáng lâm trần thế cho nên phải mắc tội với oai linh”.
Lão Tổ nói:”Trước ta tôn ngươi làm thầy ta có hỏi về Tam Tài bí mật, nay nhà ngươi tôn ta lại làm thầy thì ta nhắc lại lời hỏi đó, mau nói cho ta biết nhà ngươi tu về lạch nào, pháp nào?”.
Tôn Hoành nói: ”tôi tu về lạch Nhứt thân chi pháp”.
Lão Tổ hỏi: ”nhà ngươi tu về lạch nhứt thân chi pháp, vậy chớ nhà ngươi có hiểu mẹ ngươi hoài thai ngươi trong bụng đến 10 tháng, sanh ngươi ra có đủ 360 cốt tiết, mà trước khi sanh ngươi thì mẹ ngươi có mang một khối, nhưng nó nằm tại đâu có biết không?”

Tôn Hoành thưa rằng: ”lúc đệ tử còn ở trong bụng mẹ thì đệ tử nằm ngay trong chỗ hiện thời, kêu là Phòng tử (Tử cung) chẳng biết, chẳng hay cũng chẳng nói rằng chi hết”.
Lão Tổ nói: ”nhà ngươi nói nhà ngươi tu nhứt thân chi pháp, mà nhà ngươi chưa hiểu lý để ta giải rõ ràng mà khá để vào tâm: khi mẹ nhà ngươi hoài thai ngươi làm con trai, thì trước khi lâm bồn ngươi ở tại Nam thiên môn nằ đó một khối cho nên con trai mới cùng tính với trời mà cũng được làm trời. Còn như sanh nhà ngươi làm con gái, trước khi lọt lòng thì được ở tại huyệt đáy Võng tuyền, cho nên con gái có cùng tính với đất mà làm đất. Nhà ngươi có hiểu chăng?”
Tôn Hoành thưa rằng:” đệ tử chưa biết”.
Lão Tổ nói: ”ta hỏi nhà ngươi một lần nữa, vậy chớ nhà ngươi khi còn ở trong bụng mẹ ngươi có biết mình có tánh hay không có tánh?”
Tôn Hoành thưa rằng: ”bị bao đến 10 lớp da làm sao hiểu cho đặng”.

Lão Tổ nghe Tôn Hoành nói nực cười mà nói rằng:” Phàm làm con người đâu có 10 lớp da thừa, bất quá có một lớp thịt mà thôi. Đại phàm trong lúc thai còn ở trong bụng mẹ thì mọi phần đều do mẹ cai quản như: thai con trai thì đeo nó tại chỗ Tể luân, chỗ lương thượng lưng phía bên tả, còn nếu con gái thì cũng ở Tể luân nhưng nằm phía bên hữu.

Mỗi ngày người mẹ mang con tại Tả luân mà truyền cho con bú huyết mạch kêu là Tể nhũ, (dưỡng thai) chờ đến chừng thai đủ hình vóc, gân, cốt thì mới sanh ra. Nay ta chỉ cho ngươi minh bạch, từ xưa đến nay hễ con người chịu cái bẩm thụ khí hậu thiên thì phải chịu hai lần đau: khi sanh ra và khi tử. Nên có câu: cổ lai vô thống bất sanh, vô thống bất tử. Nghĩa là, từ xưa đến nay hễ không đau thì không sanh được, còn không bịnh đau thì cũng chẳng ai chết. 
Lúc mẹ nhà ngươi gần giờ lâm bồn tại phía trên Tể luân (rún) một tấc ba phân, đau như dao cắt thì ngươi mới ra khỏi lòng mẹ, nhưng còn đến chừng ngươi gần chết thì đau ở tại đâu? Cũng tại phía dưới Tể luân một tấc ba phân, đau như cua lột bị nấu trong nồi, một lúc thì mới chết. Khi Mẹ ngươi lâm bồn sanh sản (toạ thảo) thì mẹ ngươi phải đem hết vốn liếng của mình ra để (căn nguyên tánh mạng mà trao cho ngươi) vận ba lớp ngươn khí truyền lại cho ngươi để làm căn bản. 

Thế nên lúc thai sữa soạn quay đầu, thì mẹ ngươi hớp một hơi ngươn khí truyền giao xuống cho ngươi phân nửa, thai nhờ được ngươn khí này mới được quay đầu, còn nửa phần thì mẹ ngươi giữ lại để bảo hộ thân. Còn nếu mẹ ngươi mà đem hết ba ngươn khí giao cả cho ngươi, thì mẹ ngươi phải chết còn ngươi thì được sống. Cái lý ấy là của Tự nhiên, khi ngươi gửi cái thân mạng mình cho mẹ. 

Còn một lý nửa, lúc nhà ngươi còn trong bụng mẹ, nếu cái Tam ngươn khí chẳng đủ là Thiên ngươn, Địa ngươn, Nhơn ngươn. Nếu như Thiên ngươn không đủ thì cửa Tề môn không mở làm cái điểm Linh quang khó tới được; Địa ngươn chẳng đủ thì đầu gối chưa sanh, sợ e phải nhảy ra hồng trần cảnh giới; còn Nhơn ngươn không đủ thì miệng răng chẳng sanh, sợ e bị đổi mất tánh người.
Nên lúc nhà ngươi vừa ra khỏi bụng mẹ, thì có một trận thanh phong thổi đến đó là một cái Tánh linh quang xâm nhập vào trong khiếu của ngươi. Cái đó gọi là: Tánh đậu được vào Mạng thì ngươi mới được chỗ an thân. Nên khi điểm linh quang thông vào được Mạng đặng rồi thì thai mới được ra thông thả mà anh nhi liền mới khóc lên một tiếng, thì thân mẹ mới khỏi chịu điều khó nhọc”.

Lão Tổ nói rồi thì Tôn Hoành nước mắt dầm dề đầy mặt mà nói rằng:”thiệt uổng công đệ tử tu hành một lúc không nhằm chánh giáo, nay hiểu đặng đường sống, nẻo chết rồi mới nghĩ hèn chi lời xưa có nói: phàm việc gì mà làm không chịu đo lường, suy tính để làm bốc hốt, không phân thước tấc thì kêu là: Sở dĩ thất trường bát đoản, tổng bất phương viên. Nghĩa là: chỗ làm bề dài 7 thước, bề ngang tám thước, tóm lại là chẳng đặng vuông tròn”.
Lão Tổ nói: ”nay đệ tử đã tỉnh ngộ hiểu được chánh tà, hư thiệt nhiều chỗ đã thông, vậy ta hỏi ngươi có biết được mọi chúng sanh lúc chết thì chết tại chỗ nào trước, biết không?”
Tôn Hoành thưa:” bạch thầy, bởi đệ tử mới vừa tỉnh ngộ nên chưa hiểu việc đó”.

Lão Tổ nói:” vậy thì ta chỉ rành cho ngươi khá ghi vào lòng. Đại phàm người nào trước khi chết, huyệt Võng tuyền đều cũng phải bị khô thì mới dứt tuyệt được căn mệnh. Vì dưới đáy Võng tuyền là thuộc Địa căn, nếu Địa căn dứt rồi nó mới tiếp với thiên căn một đoạn thì cái điểm linh quang mới được xuất đi thong thả; rồi tiến thẳng đến rừng Song lâm thọ hiện xuất Kim châm, mở toan đỉnh núi Côn lôn nghĩa là nó mở cái cung Nê hoàng để hồn (Tánh) ra đi tại chỗ đó. Vì người khi sanh (đầu thai) thì đi từ Nam cực đến, còn khi chết thì từ hướng Bắc đi về.
Nhà ngươi tuy vào đạo tu hành mà chưa hiểu được sự sống chết, ta hỏi ngươi vậy chớ khi mẹ ngươi hoài thai trong bụng 10 tháng, phải chịu mang 8 nạn mà cái hại đó khởi tại chỗ nào, ngươi có hiểu chăng?”
Tôn Hoành thưa rằng: ”đệ tử còn ngu muội nên chưa hiểu thấu”.

Lão Tổ nói:” vậy thì nhà ngươi vào quỳ trước mặt ta sẽ tuỳ đầu chí vĩ phân giải minh bạch căn do cho ngươi rõ. Vả chăng, ngày nay người ta tu hành mà không chịu nghiên cứu điều hư, lẽ thiệt thì làm sao mà rõ được tình lý mà họ chỉ ham mặc áo vàng, cầm chuỗi lần, đông lai, tây khứ (đi đông qua tây) để diễu gạt người mê nhằm thâu vật báu cho đầy nhà, cùng với những hư danh giả lợi thì đâu có nhằm biết mùi của Đạo. Vậy ta đem cái Thai Cốt Kinh đọc đủ mọi điều điều minh bạch, ngươi khá nghe mà để vào lòng, để biết cái công ơn của mẹ ngươi hoài thai 9 tháng.

THAI CỐT KINH RẰNG:
Trong một năm đủ bốn mùa, thân người mẹ rất thảm thê nhiều tháng dài để nuôi dưỡng bào thai, cho đến khi được ấm Hoả hầu. Thai đủ một tháng có tên là Trường mộ thai, lúc này thai như bọt bóng mù sương trên ngọn cỏ, chẳng thấy tung, không hiểu tích vô danh, vô tính.
Được hai tháng tên là Trường vượng thai âm dương giao ứng, thân mẹ lên giường như say, như mê khi giấc điệp, hể trở mình thời nhức mỏi, lúc tỉnh giấc khi đi, khi bước chân nhẹ đầu nặng. Đến ba tháng tên là Trường linh thai mình dài 6 tấc, người mẹ hoài thai như người mới thọ bịnh trà, nước chẳng nhớ, cơm canh chẳng tưởng, trọn ngày sầu muộn đi đứng chẳng an, ngồi cũng chẳng đặng khoẻ như người bị bịnh báng thân.

Đến bốn tháng, gọi là Trường linh thai tứ chi đã định, trước sanh 2 chân, sau sinh 2 tay. Hạ-Thu-Đông-Xuân sanh đủ 2 tay thì trông thấy huyết mạch vận chuyển, đủ được hai chân thì thấu đến huyệt Huyền quang, Võng tuyền làm cho huyết thiếu, nên người mẹ đi đất bằng như đi ở núi cao làm cho đầu gối luôn đau mỏi, nhức. Cũng tương tự như nay nhà ngươi đã tu hành mà chưa được từng nghe chánh lý vậy.
Đến 5 tháng tên là Trường linh thai, năm vóc ngay thẳng được tại chỗ Thiên căn, hể thai khô môi thì mẹ chịu bịnh đau nhức, trước 8 ngày, sau 8 ngày chết sống cũng không biết cửa ra. Cũng như, nay nhà ngươi đã tu hành mà chưa biết đặng nẻo đường vào cửa Phật, nên rất ưa mộng huyễn thì làm sao đền ơn sanh dưỡng cù lao cho mẹ ngươi được. 

Được 6 tháng cũng còn gọi là Trường linh thai, lúc này Lục căn mới đi phân tánh, trước thông nhãn, sau thông nhĩ, tỷ thiệt đều nên nhưng, hễ giao thông mắt sáng cho con thì lỗ tai mẹ rì rào như muốn điếc. Cũng như ngươi nay đã vào đạo mà chưa biết hành đạo nên mắt còn ưa xem sắc, tai còn ưa nghe tiếng, miệng và mũi còn ưa nếm mùi thơm; miệng ăn mặn nên còn hay thích nói lỗi người, lòng còn chẳng được chánh như đem cái công khó nhọc của mẹ ngươi chôn hết vào nơi đoạ lạc thâm căn.

Được 7 tháng tên là trường linh thai bảy khúc khiếu mới đầy đủ, tả có Tâm Can, hữu có Phế Phủ, Hổ tú Long ngâm thì trong lòng mẹ của ngươi rất là đau nhức. Tiền Châu tước, hậu Huyền võ, bàng quang lưỡng Thận cũng bị ngày lần một suy vi, mình bụng ngày càng to lớn, mỗi bước đi nặng có đến ngàn cân. Thai đủ hoàn toàn thì ngũ tạng, kho tàng có đủ thì mẹ rất thèm ăn mỗi khi thấy được đồ ngon, nhưng mẹ chẳng dám kề môi cũng vì con mà dặn lòng kiên cử. Trong kinh có nói, người mang thai phải chịu ngày tối khô môi, nay nhà ngươi đã lìa cách mẹ thì ngươi đâu trả đặng ơn sâu nghĩa nặng.

Được 8 tháng tên là Trường linh thai, người mẹ mỗi chiều ngơi nghĩ khó có thể được an thân, lúc đêm tối gối đầu cũng chẳng đặng an giấc, hơi thở vào ra tưởng chừng như không kịp, lại phải thêm khó đứng, khó đi. Mỗi khi con lúc đói hút truyền từ huyết mẹ, thì lòng mẹ bị xót chua, trăm điều khổ não chịu nhiều đắng cay.
Đúng 9 tháng, tên là Trường linh thai thì Tam hườn, Cửu chuyển mới bắt đầu vận động, một ngày kia con lay vận động thì lòng mẹ đớn đau; chuyển động bên tả là trai do Lục dương triều tấn; chuyển bên hữu là gái vì Lục âm khí vận để chờ một ngày sanh sản mà chịu lưng mỏi, gối đau. 
Cũng như nay nhà ngươi tu, mà hành đạo thăng giáng chẳng thông, cứ theo năm cái tướng giả mà tu hành thì làm sao không lạc lối, làm thế nào để được bồi đắp thâm ân.
Tháng thứ 10, thai đã hoàn toàn hình vóc trọn đủ, đến lúc lâm bồn thì người mẹ phải chịu cửu tử nhứt sanh (chín phần chết một phần sống) cũng bởi vì con”
Lão Tổ nói rồi ngâm bốn câu thi rằng:

Ngàn Kinh, muôn Điển Hiếu vì tiên
Thảo thuận đời sau nhỏ giọt truyền
Ở thế đạo làm người vẹn vẽ
Tu hành Tiên đạo sẽ thành duyên
Ba năm nhũ bộ công lao khổ
Chín tháng cưu mang mấy đoạn phiền
Nghĩa mẹ ơn cha hằng tạc nhớ
Ngày qua bỉ ngạn mới là yên

( Lời điều tục có nói: mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, mỗi tháng tính đến 45 ngày chưa mấy đủ, vì lúc ban đêm mẹ thức với con mỗi một ngày trong tháng lại tính được 15, cộng lại gọi là một tháng có 45 ngày. Còn con thờ mẹ chưa mấy là bao, nhưng cũng được gọi tiếng ba năm, song lại còn chỉ tròn 24 tháng, vì con thờ mẹ được tính từ ngày tạ thế, rồi làm tuần thất thất bá nhựt ngày tạ thế, lại thêm làm tuần thất thất bá nhật tiểu mãng nữa, đại tường tính dồn lại chỉ còn là 24 tháng. Nên phận làm con đối với ơn cù lao dưỡng dục, phải làm sao cứu được cha mẹ ra khỏi âm ty địa ngục thì mới gọi là người con báo được hiếu).

Tôn Hoành nghe rồi khóc lớn lên một cách rất thảm thiết mà nói rằng:” uổng công tôi xuất gia tu hành mà chưa từng biết đạo, cũng không hiểu cái lý trong kinh, “Thai cốt” đức lớn của mẹ cha sanh dưỡng. Nay nhờ gặp minh sư dạy dỗ, mới mở đặng đường bí lấp của tôi buổi trước, hèn chi trong sách có nói rằng: mộc dục tịnh nhi phong bất tức, tử dục dưỡng nhi mẫu bất tồn. Có nghĩa là cây muốn lặng mà gió chẳng muốn thôi, con muốn nuôi mà cha mẹ chẳng còn, nay hiều ra tôi chẳng biết phải làm sao mà trả đặng nghĩa sanh thành cho trọn.
Lão Tổ thấy Tôn Hoành than thở thì nói rằng:” chẳng phải sự nuôi dưỡng không thôi là đền ơn được cho cha mẹ, nếu ngươi muốn báo đáp thâm ân thì phải giải thoát họ cho khỏi địa ngục chi khổ, thì trước tiên ngươi phải ráng lo tu hành cho thành chánh quả, thì mới cứu vớt được song thân nơi trầm luân khổ ải, mới dắt được tổ tiên ra khỏi âm ty địa ngục. Đệ tử hãy nghe bài kệ này thì rõ biết cách làm một người con hiếu đạo”. Lão Tổ nói rồi ngâm bài kệ rằng:

Cung kỉnh Kiền Thiền thiệt là tôn cha mẹ
Nên danh nhiều lợi thiệt làm vinh hiển cha mẹ
Sớm thăm tối viếng bèn thiệt là kính cha mẹ
Khó nhọc nuôi dưỡng bèn thiệt là nuôi thân
Nhứt hô bá ứng bèn thiệt là thuận thân


Ấy là thế gian luân thường chi đạo, khá gọi cho đặng vẹn toàn mà chỉ có thể gọi bằng một chữ thuận mà thôi, chớ chưa báo đáp được thâm ân cho cha mẹ ra khỏi vòng địa ngục chi khổ. Muốn vậy thì phải ráng lo tu hành cho được phản bổn hườn nguyên thì mới được siêu Tông, bạt Tổ mới đền bù được song thân vô lượng chi ân, làm người con trọn thảo”. Lão Tổ nói rồi ngâm bốn câu thi rằng:


Làm con khó trả đặng ơn sâu
Muôn việc trần gian, Hiếu đứng đầu
Chín tháng cưu mang nhiều khó nhọc
Ba năm nhũ bộ cũng hèn lâu
Tu hành trước phải tròn nhơn đạo
Ra thế mới hòng tránh biển dâu
Ba vạn sáu ngàn là dễ mấy
Ngày qua tháng lại bóng thiều thâu

Nay nhà ngươi giả tên là người đạo mà chẳng biết chỗ hành đạo, lại bỏ cha mẹ đi xa, cũng chẳng biết cha mẹ ngươi trông đợi biết dường nào. Cũng có lắm người, khi còn thơ ấu được cha mẹ nưng niu, cực khổ để nuôi cho con khôn lớn chỉ cậy trông lúc ở tuổi về già, nhưng có người quá già, quá yếu mà chẳng dè con lại bỏ đi xa, biệt cha mẹ chẳng lòng đoái tưởng. Làm cho cha mẹ nhớ con như ngàn tiễn xuyên tâm, lại sầu nỗi con cơm không được no dạ, lại còn e sợ con áo quần chẳng có mà chân lại phải đạp nơi đất khách, sớm tối chẳng gặp được người thân! 

Rồi bóng hồng nhật tây trầm, cảnh trời chiều người nhiều thê thảm, thiết thiết bi bi chốn phòng môn mùa xuân huê nở, chim Dinh đeo hận cho chín tháng cúc khai lẫn tiếng Nhạn kêu sầu, sang mùa hè đến tiếng Ve đường tợ khóc. Đến mùa đông sang lá vàng khua tiếng úa, đêm năm canh đều thấy chiêm bao; chiêm bao thấy con về thỏ thẻ, liền hốt nhiên tỉnh dậy nhưng cũng không thấy hình dạng con đâu! Rồi chỉ ngậm ngùi lau nước mắt ngó nguyệt, dòm sao nuớc mắt ướt đầy bên gối mà lòng càng đeo mang nhiều thảm thiết, vì nhớ thương con. Gởi biết bao nhiêu thơ, cùng tin nhắn nhưng cũng chẳng thấy hồi âm, túng phải đi xin xăm, bói quẻ để cầu mong thần thánh cho mẹ con tương hội”.
Tôn Hoành nghe rồi trong lòng ăn năn tự tỉnh, liền quỳ xuống đảnh lể tạ ơn.

Lão Tổ nói:” nay ta có một lời để phá mê cho ngươi, chớ khá giả dạng mà hư danh Đại đạo. Quy y Phật – Pháp - Tăng gọi là Tam Bửu của chính trong người ngươi là Tinh – Khí - Thần cùng cảm ứng, cho nên mới sanh ra được đức Từ bi, cùng với Tam giáo thiệt đồng một nguồn mạch. Tiên đạo vốn được người Trung nhơn khởi đạo, bên Tây phương thì có nhiều người trung hiếu, cùng trì trai thủ giới hành đại đạo mà được siêu rỗi tổ tông cùng cha mẹ. Nay ta mỗi điều phân hết, ngõ cứu độ ngươi ra khỏi khổ luân, phải cho biết rõ hai tầng Phàm- Thánh mà hành đạo thì mới chẳng uổng công ngươi tôn ta làm đến bật thầy”.

Tôn Hoành nghe rồi hổ thẹn chẳng cùng, nước mắt dầm dề quyết cải tà quy chánh, tu ngộ chơn truyền đặng báo đáp thâm ân cù lao dưỡng dục. Nói rồi quỳ xuống lạy cầu Tâm pháp.
Lão Tổ nói:” nay nhà ngươi biết ăn năn thống cãi tiến phi, yêu cầu chánh đạo thì phải tua lập thệ nhập môn”.
Tôn Hoành nghe lời phô bày lễ vật quỳ tại Phật tiền mà lập thệ rằng:” nếu đệ tử có đắc đạo rồi mà ở hai lòng, thì cam chịu muôn kiếp trầm luân”.
Lão Tổ nói:” việc cầu đạo đệ tử phải thành tâm, tuân tam quy, ngũ giới y pháp mà làm, thập ác bát tà trừ hết; phải tuân tam huý, cửu tư ráng thâu vào một khiếu, để tánh hư linh làm được trọn lành, trị lục thần và lục căn cho thanh tịnh thì bụi trần chẳng dấy, ngũ huẩn đều không, mộng huyễn đều không, nhơn và pháp hai điều cũng dứt thì núi Côn lôn nhứt khiếu thấy được chốn Hư không. Rồi ngày sau đệ tử hãy tầm minh sư mà học đạo chơn truyền khẩu khuyết thì mới được siêu sanh liễu tử.

TAM HUÝ LÀ: Huý Thánh nhơn, Huý Thiên mạng, Huý Đại nhơn chi ngôn.
CỬU TƯ LÀ: Thị tư minh, Thính tư thông, Sắc tư ôn, Mạo tư cung, Sư tư kỉnh, Nghi tư vấn, Ngôn tư trung, Phấn tư nạn, Kiến lợi tư nghĩa”. Lão Tổ nói rồi ngâm tám câu thi rằng:

Chí công mài sắc việc tu hành
Sáu cửa ngăn ngừa lục tặc tranh
Một khiếu hư linh thông tánh sáng
Tiên thiên chí tịnh đạo căn thành
Êm ru rành thấu đông trung tịnh
Rõ biết trong mình có khách thanh
Luyện đến vô nhơn vô ngã chúng
Mới là liễu tử được trường sanh

Nói về Lão Tổ đem việc tu hành diệu cảnh nói cho Tôn Hoành một hồi, nhưng lại còn e Tôn Hoành chẳng biết, sợ có chỗ lụy đến kiếp oan khiên, khiến chẳng cho thành chánh quả để đến chừng ngày lâm chung đạo chưa ứng nghiệm, rồi bị nghiệt ma hiện về mộng huyễn mà cướp nhà ám xác, nên phân chỉ cho Tôn Hoành biết gom tâm thần về gốc, để khỏi bị đoạ về nơi xâm hại thì sau mới đặng vĩnh chứng Bồ đề. 

Lão Tổ bèn gọi Tôn Hoành lại ngồi một bên nói: ta cắt nghĩa cho ngươi nghe rõ, ngộ huyền diệu phải biết đạo Phật pháp tinh huẩn, tưởng khi trước nhà ngươi tu hành lầm lạc một lúc, nào có biết đặng chỗ vị lai kỳ tính. Tuy nhiên ngươi thiệt học đạo thần tiên mà chẳng biết tánh mạng, thì khá lột bỏ hết ra mà hỏi rồi mới đặng thành chơn. Chỗ sanh lai cùng tử khứ từ xưa có ai khảo xét, ngày nay ta chỉ cho ngươi rõ hết, sao làm bằng cớ để có công quả đến ngày viên mãn, khỏi phòng sanh bịnh, biết ngày giờ lâm chung ngươi mới an bài, tứ thời ứng hiệu: Nhớ giữ lấy khiếu Huyền quang, tồn thần định trú khiến ba hồn hiệp bảy vía, ngưng tụ quy căn không nên thấy những chỗ hoá cảnh giả mà tưởng thiệt làm theo thì lầm lạc. 
Như thấy tràng phan bửu cái, chớ nên đi tới, hoặc lầu đài, cung điện các chẳng khá đi theo, tâm đừng sao động; nếu đói khát thấy vật phàm chớ khá kề môi, thấy sen trắng, xe đen, ngựa lừa biến cảnh; thấy âm nhạc cùng thế nữ, bị yêu tinh cướp thần, thấy sắc tốt, gái tốt cho heo dắt, đừng đi theo nó mà bị thai hoá hình; thấy qua cửa nha môn, lộng xe tán đỏ, hồng phước dụ dẫn nếu tưởng thiệt, thì bị đọa liễu pháp thân. Người tu hành là do Quan thế âm tánh mạng luyện thành, thì phải đành thối lui trước ma vương trận. Còn luyện được không thân, không tâm cho dù đến lúc lâm chung cũng chẳng khá ham mê cảnh tốt, e đầu thai mà hại thân mình.

Lão Tổ lại nói rằng: Phàm ở thế gian, người tu hành cũng vậy khá coi chừng ở lúc lâm chung, trong lúc cần cấp mà có tạp cảnh hiện ra trước mắt tiếp dẫn vào chốn mê đồ thì khá tua xét nét. Lời ta chỉ bảo, chỉ sợ cho người có oan nghiệt tiền khiên quá nặng, nên lúc lâm chung hiện hoá nhiều tạp cảnh nó dẫn dụ đầu thai như là: thấy Phật Thích ca tiếp dẫn, đầu thai ra chồn. Thấy Quan thế âm tiếp dẫn, đầu thai ra rồng. Thấy Phật Thế chí tiếp dẫn đầu thai ra cọp. Thấy Vằn thù Bồ tát tiếp dẫn đầu thai ra rồng, thấy chú và bác tiếp dẫn đầu thai ra mèo. Thấy nhứt thiết cờ xí tiếp dẫn đầu thai ra thượng chim. Thấy bửu cái tiếp dẫn, đầu thai ra chim phượng hoàng. Thấy kiệu tiếp rước, đầu thai con cua. Thấy cung nga lễ bái đầu thai ra vượn và khỉ. Thấy toà sen xa táng tiếp dẫn đầu thai ngựa và lừa. Thấy cung nhơn lễ bái đầu thai đại trùng sấu. Thấy tinh quang anh các tiếp dẫn đầu thai tôi mọi. Thấy cầu nối qua sông đầu thai thấp sanh (đẻ trứng). Thấy kim quang tử lộ (hào quang chiếu sáng) đầu thai đại trùng. Thấy huỳnh hoa lâu đài, đầu thai ong mật. Thấy vàng bạc và kiệu đầu thai thấp sanh. Thấy tiên hiền nhạc trỗi đầu thai heo và dê. Bằng thấy đồng tử tiếp dẫn, đầu thai làm quan lớn và giàu sang. Thấy bên tây sơn một vùng mây nguyệt chói, một vị chơn tăng (thầy chùa) mặc áo trắng tiếp dẫn ra mắt Như Lai, chừng đó mới khá đi theo. Nói rồi Lão Tổ ngâm thi rằng:

Những người học đạo chớ lòng kiêu
Sợ lúc lâm chung khó dắt dìu
Ba tấc dứt hơi mê liễu lộ
Bà sa cảnh tam giái quy điều
Lâm chung dè dặt ngừa hỗn loạn
Lộ thượng luân hồi vạn vạn điêu
Bền chặt niệm đều xa ý mã (tâm viên ý mã)
Lục môn thanh tịnh đặng tiêu diêu
Phải đề phòng lúc lâm chung cửu khiếu huyền diệu khá dè dặt, tham thiền tịnh tâm, luyện thần trở lại hư vô cho khỏi lầm tạp cảnh. Bào thai mà để mất thì kiếp người khó tìm lại đặng, nên coi theo bài kệ này mà làm:

KỆ RẰNG:
Lầu đài nổi trống vạn người kinh
Một tiếng rền tai định thái bình
Bởi cớ hôm nay không nổi trống
Chỉnh tề áo mão kiếp đăng trình
Nhạn môn trên ải loà đèn đuốc
Vẹt ngút trời cao tỏ rõ tình
Ta chỉ ngày nay chơn diệu lý
Minh thần chẳng rọi để hành trình
Trên quang sư tử nghinh ngang bước
Trong đảnh cửa trời chiếu nguyệt tinh
Có bạc hằng mua đường chẳng chết
Vô thừơng tránh đặng định nam chinh
Thổ kiều trên ải phân vân loạn
Trực ngã cầu siêu khá bước sao?
Quyến thuộc đầy nhà song lưu lạc
Tìm thâu khối lạnh được yên mình
Giấy vàng trên ải treo hoa nở
Thuỷ Hoả ký tế thoát tử sinh
Xách giỏ hoa lam hành lộ thượng
Tào khê nước cạn khứ hồi minh
Cửa hoang bát nhã mang mang loạn
Cẩn thận loạn thần dấy động binh
Trong chảo nước sôi cua lột vỏ
Ngũ triều đều đến nhập trung dinh
Trên quang thuỷ hoả âm dương định
Hữu tứ tả tam chẳng hiệp tinh
Thâu nhập trái châu hai rồng giỡn
Rồng lìa vực thẳm thượng thiên đình
Ba la trên ải tràn hơi lạnh
Lều cỏ thắm dùi đạo lý minh
Lục tặc ra nơi huỳnh kim địa
Dầu keo đèn tắt dễ đăng trình
Diêm quân thập điện đều qua khỏi
Bay đến niết bàn vượt tử sinh
Ít kẻ hiểu thông vào chin ải
Hiểu thông chin ải máy thiên đình
Gió thanh trên lộ rường cung tiễn
Chót núi côn lôn triệu thái bình

(Đoạn này ngài dạy lập tâm đại tịnh, chí định ngừa lúc lâm chung cho cửu khiếu đóng, cung nê hoàng mở thì tránh khỏi lục đạo luân hồi.
Còn người tu luyện đạo chuyên cần đóng được cửa lục tặc, luyện cho đến vô nhơn vô ngã, thì cung nê hoàng xuất hào quang phát hiện tại đó thì mới được. Nếu còn tánh giận hờn thì lục tặc dậy, cung nê hoành sẽ bế đi thì khó mà luyện được ngươn thần. Còn hễ đại tịnh được rồi thì thần khí cụ túc, trong thân tự nhiên biết thu nhận đầy đủ, không thiếu thứ gì nên người tu không cần ăn mà không hề đói, không cần ngủ mà không mệt mỏi mà còn xuất thần đằng vân chu du đây đó được. Trong giác mê ca có nói: ai dốc lòng lên núi Linh sơn, đóng sáu cửa bèn cài then khoá chặc.)

Do nhiều kẻ tu hành mà chưa biết đặng cái lý đó, nếu biết được thì thành đạo. Đại phàm, người tu lúc lâm chung thường nhứt thiết thấy tiếp dẫn đến đón nhưng đó đều là do bào thai gạt người vào đường sanh tử, lục đạo luân hồi; sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh. Chỉ người nào có biết tu hành luyện đạo, và có tánh hiền lương, không hay hờn giận, thì gần lâm chung biết ngưng thần tựu khiếu, mới hiểu sự giả chơn mà tránh khỏi tà ma dẫn dụ, cũng chẳng nên gần ý mã tâm viên rồi vội thấy tiếp dẫn mà theo.
Chỉ chừng nào thấy tây phương bên núi nam sơn, có một vừng minh nguyệt, có một đạo bạch quang hoá làm bạch ngọc, thấy rõ thiệt có Phật Di đà tiếp dẫn mới khá nối gót theo đi về chốn cực lạc. Nơi có một tên kêu là vô sanh thượng quả, nhìn bà con với Phật Di đà mà được bất sanh bất diệt, đá nát biển khô, đời đời chẳng hoại, bèn thiệt là thiên cung thánh cảnh? Nói rồi Lão Tổ ngâm 8 câu thi rằng:
Cảnh báu Niết bàn ít kẻ đi
Nghe rồi sao chẳng nguyện quy y
Bằng về đặng gặp quy căn bổn
Thoát khỏi luân hồi vạn kiếp bi
Mối lộ kỳ viên mau bước tới
Bá tông khứ lãnh ngộ giai kỳ
Đường quanh gai gốc tua dè dặt
Vịnh mối Di đà nhậm chứng tri

Ngâm rồi Lão Tổ lại nói rằng:” hiện thời người tu hành phải coi chừng cái linh quang ở trên đầu, nếu để rớt nằm xuống đất rồi thì tứ đại bên trong tuôn lướt hết ra cửa ngoài, thì người tu cũng không còn đường lui tới. Nếu trừ được sự huyễn, cẩn thận mà đi thì đặng mối đường, đường có ba ngã: một ngã kêu là Minh quang đại lộ, một ngã kêu là Hắc lộ, một ngã kêu là Thanh đài u lộ, chính giữa Thiên cung chánh lộ.
Hắc lộ ở phía tả, Thanh đài u lộ ở phía hữu cứ đường chánh mà đi, vô nơi bồng tháp phải ngừa, ý mã tâm viên phải cho cứng cỏi, phủi hết tam tâm tứ tướng đánh thối lục tặc mê hồn, lướt khỏi tam quang chin cửa ải thì phi thăng lạc cảnh, triều kiến Lão mẫu chơn không, nhìn được Vô sanh phụ mẫu tiêu diêu tự tại; thiên cung thánh cảnh thử vị hườn nguyên phản bổn, trở lại nguồn xưa”.

Mấy khoản này Đức Bồ đề Đạt ma ngài luận trời là Đại thiên, còn người là tiểu thiên do trong mình người cũng có đủ ngũ hành, ngôi tiên thiên vô cực và ngôi thái cực, cung diêu trì có vô sanh phụ mẫu, hay là chơn không phụ mẫu. Mấy chỗ này ngài dạy đạo, luyện đơn tham thiền ngài giải nghĩa rỏ, chỉ truyền nói nội trong thân con người chớ chẳng phải nói bên ngoài châu thân. Mấy chỗ dạy luyện đơn này, ai mới nghe tưởng là tu luyện như tà đạo, ngồi tham thiền rồi xuất thần bay về chốn hư không tiên thiên vô cực, bái triều cha mẹ chơn không, chẳng phải vậy đâu? Ấy là luyện pháp luân thường chuyển trong châu thân, xin hiền lương quân tử ai có đọc đến đây xin để ý.

Nói về Lão Tổ đem cái lý quy gia bửu kệ thuật lại với Tôn Hoành, dạy cách ngồi tham thiền, luyện đạo, phản bổn hườn nguyên. Nhưng Lão Tổ còn e Tôn Hoành chưa hiểu mối Châu thiên, chạy giáp một vòng mà dùng, cho nên ngài nhắc lại cái luật vận hành của Châu thiên, dặn Tôn Hoành hãy nghe câu này mà để vào lòng cho nhớ. Kệ rằng:

Phật ở linh sơn diễn diệu kinh
Trăm ngàn dư cuốn độ chúng sanh
Tuy Phật ngài lậu hết thiên cơ (máy luật của Trời) nhưng còn để lại một chỗ là: phá định nam châm ngài chưa chịu nói, nên ngài phân 12 giờ sau đây cho Tôn Hoành kiến hiểu:

Giờ Tý xem coi Đinh nam châm có: nhất dương sanh ở hào sơ trong quái Địa Lôi Phục là khởi đầu có gió thanh lên, tùng đó mà luyện tánh cũng như mèo rình chuột, nguy nguy chẳng động mới hội được Lục thần.
Giờ sửu xem coi Định nam châm có: tam dương khai thời, đến chia khí trược con ve vàng, dỡ đồng tiền vàng xúc động trâu đất nghiêng mình.
Giờ Dần xem coi Định nam châm có: nhị dương sanh ở chánh mùa xuân, Bạch hổ mừng sáng mà ra đồng, có Thanh y đổng tử cười ngâm nga.
Giờ mẹo xem coi Định nam châm thấy bên đông có Ngọc thố, lên muôn dặm khói toả mây bay, trên không có một lằn kim quang chiếu cửa đảnh.
Giờ Thìn xem coi Định nam châm khối khí chánh ngôi thần còn thiệt, rồng xanh mừng sáng nhảy ra khỏi biển cả, giá vụ đằng vân lên thiên đình.
Giờ Tỵ xem coi Đinh nam châm khí dương cực, sanh âm hoả hầu ngưng tâm viên ý mã, nữa phần dời qua song lâm thọ, buột chặt lục tặc nơi thành Phàm vương.
Giờ Mùi xem coi Định nam châm khí dương sáng lần theo đóm lửa, lục thần vui vầy yến ẩm tiệc bàn đào.
Giờ Thân xem coi Đinh nam châm đến triều kiến Diệu trì, cung thọ trường xuân, sáu hầu viên đều dâng trái, đầy trời chủ Phật cười vui ngâm kệ.
Giờ Dậu xem coi Đinh nam châm đại định, đại tịnh thủ Huỳnh hôn, một mình ngồi trong tịnh thất ngăn ngừa giặc đến xâm.
Giờ Tuất xem coi Định nam châm xét kỹ, tắm gội trong ao nước ấm, hoảng hoảng hốt hốt, tinh thần khoẻ khoắn gà vàng gáy kêu, người tỉnh lại trong giấc mộng.
Giờ Hợi xem xét kỹ Định nam châm trâu cũng như heo qua giữa dòng sông, tới lui trên lượn sóng theo ý muốn, trở lại sông Huỳnh hà chuyển lên núi Côn lôn.

Trong 12 giờ châm định chỉ nam là huyền vi chuyễn động của Càn Khôn biến ra muôn hình vạn tượng trong đó. Nếu ai biết được, trộm lấy cái linh khí Tiên thiên này thì muốn gặp, thấy Như Lai chẳng khó.

Nói về Lão Tổ đem thập nhị thời thần và nhứt khiếu chỉ nam châm chỉ dạy rõ ràng cho Tôn Hoành, nhưng vẫn còn rất e ngại cho Tôn Hoành chẳng hay chịu chú tâm nghiên cứu, cho nên Lão Tổ lại dặn dò một lần nữa rằng:” cơ tạo hoá căn nguyên thiệt là khó mở miệng nói ra cho hết ý, cái máy vô vi huyền diệu đó. 
Nếu người nào lý chưa hiểu rõ mà cũng chẳng gặp minh sư chỉ dẫn, thì khó nghe được cái chơn kệ này của Phật. Phàm người ý phải cho lớn, tâm cho to thì mới đi đến bậc Hư linh, ngày nay tuy nhà ngươi đã nghe được cái lý chánh pháp thì khá tua giữ việc tham ngộ cơ vận hành cổ máy vô vi của tạo hóa thì mới được khỏi luân hồi. Giờ nào cũng phải giữ chơn tánh, dẫu ban đêm lên trời cũng không thấy tối, dẫu thường ở dưới đất cũng không chết, lại được vào sổ bộ vô sanh, vô tử thiệt chắc của máy huyền cơ vô cùng kỳ diệu lý. Vậy chớ đồ đệ đã hiểu sanh chơn tánh chưa?”
Tôn Hoành thưa rằng:” đệ tử chưa biết”?
Lão Tổ nói: ta hỏi nhà ngươi cái gì nhà ngươi cũng cứ nói không biết, mau tua khá tư tưởng để suy xét cho minh bạch tứ đầu chí vĩ lại đi”!

Tôn Hoành trọn nữa khắc cúi đầu làm thinh không trả lời.
Lão Tổ lại hỏi nữa:” Tôn Hoành, nhà ngươi đã tầm được Bổn lai diện mục chưa?”
Tôn Hoành nghe hỏi thì lập tức ngũ thế đầu địa nằm vẹc xuống đất (nằm mọp xuống đất) Khẩn cầu rằng:” mong cầu tổ sư pháp huệ, bởi vì đệ tử quá ngu muội chưa hiểu, xin nhờ tổ sư mở mang”!

Lão Tổ nói:” nhà ngươi nói ngươi tu nhứt thân chi pháp, mà ta hỏi nhà ngươi cứ nói chưa biết, chưa biết! Ta từng lấy sông núi thiên nhiên để tỷ thí mà thường thường cũng được phân minh đạo lý, vậy mà dạy ngươi đến giờ này mà ngươi cũng chưa tỉnh ngộ. Vậy ngươi hãy thường ngày đừng tưởng đến cái sắc thân, vì hễ có tưởng thì có hoại, tại làm sao nhà ngươi cứ nhìn nhận cái giả mà lại bỏ cái chơn, để đành chịu mình ở bực hạ thừa, học tập theo kiểu khấu đầu thiền ngữ.
Rốt cuộc rồi cũng chỉ làm bực phàm phu nhục nhãn, chẳng biết tây lai Phật tánh chung cuộc cũng thiệt là tà ma ngoại đạo. Nay nhà ngươi tuy đã thọ đại thừa chánh pháp nhưng chưa tu được chánh quả, thì cũng khó được siêu sanh liễu tử, khó ra Tam giới thì phải chịu lâu dài trong chốn trầm luân.
Trong kinh vô cầu tử có nói rằng: thế gian không có được Phật chỉ dạy chớ nên làm, không có chúng sanh tu chớ nên độ, không có thật Niết bàn thì chớ nên chứng. Đã muốn học đạo Phật thì phải: quá khứ tâm đừng nhớ, hiện tại tâm chẳng còn, vi lai tâm chẳng ước thì mới đến chỗ vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả tướng được.
Lại phải nhứt thiết lập chí không không, thì tự nhiên mới thành chánh giác, nhà ngươi tu hành theo phép bán sanh thì rớt xuống ngoan không, là đem cái tánh tinh thần hữu dụng mà để vào chỗ đất vô dụng mà sao còn không biết”.

Lão Tổ lại nói rằng:” người mê cho dầu ngàn câu, ngàn dặm cũng khó hiểu, khó tìm; người tỉnh chỉ cần một câu, chỉ làm xong một khiếu là được Quy căn. Nay nhà ngươi tu Tiên lại chuyển qua Phật và bái ngã vi sư thì cũng được chỗ dùng rất lớn, nên nhà ngươi quỳ xuống cầu hỏi diệu huyền thì ngươi vốn thiệt sơn tầm phát hiện. Còn nếu như cầu hỏi việc đạo đức, thì vốn nhà ngươi đã mở thông trí huệ, thấy đặng tu tánh luyện mạng mới thiệt chơn như, ở dưới tu tánh của đất nhưng dòm thấy được đến tận trời xanh. Vì nhứt thiết muôn vật đều tự nơi trong cái Tánh (Bản thể) sáng láng ấy mà sanh ra, nếu buông mở ra thì bao trùm lục hạp, còn cuốn tròn lại thì ẩn vào trong chỗ kín đáo, thiệt là mùi vị đó vô cùng vậy mới là học nhầm theo kiểu Phật pháp”.

Tôn Hoành cúi đầu tạ ơn mà thưa rằng:” nếu ngày nay không có thầy mở mang đường sáng láng mà chỉ truyền, thì đệ tử không biết bao giờ mở mang cái trí, mà đổi trược làm thanh đặng. Nay tưởng lại đệ tử tu hành theo lúc trước thì sai lầm, vì chẳng làm theo nề nếp đạo, cho nên bất minh tại tánh thì làm sao vận chuyển được Hà sa. Đệ tử nghĩ lại thiệt hổ thẹn vô cùng, đến ngày nay đệ tử mới được minh tâm kiến tánh”.

Lão Tổ nói:” Lành thay! Lành thay! Lành thay! Ngày nay nhà ngươi đã minh tâm tỉnh ngộ, như vậy mới chẳng hổ làm người đồ đệ của ta, ta có một lời nói với ngươi như vầy: ngươi tên là Tôn Hoành nay ta sữa lại cho ngươi là Tôn Chánh, chớ chữ tôn chẳng phải là nhỏ đâu, vì đó vốn thiệt là Tổ gia căn nguyên tôn chỉ vậy. Nên nhà ngươi có dè đâu bị tánh mê buộc ràng mà không tỉnh ngộ, lại dùng chữ Hoành mà làm tên mình, nên việc tu hành mới không theo nề nếp, do ngươi không hiểu Tổ gia là duy nhất, bất nhị pháp môn; ấy là ngươi đã bị tội phạm tự làm cho loạn tánh Hoành hành, không tìm được đường chơn chánh, khẩu truyền diệu khuyết nên không bao giờ mà nhập thất được. 
Nay ta sữa lại cho ngươi nhứt chánh tự, nghĩa là chữ Hoành đổi lại thành chữ Chánh thì sáng rõ, hiểu Tiên thiên chánh lý, tu hành chánh kỹ mới hoá nhơn để dạy người sau nhìn nhận nguồn cội tổ phái, theo đường tu hành chánh giáo thì mới được phản bổn hườn nguyên mà tôn đường chánh đạo lên vậy”.

Nói về Tôn Hoành đã cãi tên là Tôn Chánh, được minh chánh pháp thông hiểu diệu huẫn thì lòng mừng khấp khởi cúi lạy tạ ơn.
Lão Tổ nói:” Nay đồ đệ đã hiểu ngộ chơn tánh, mới biết lúc trước tu hành lầm lạc, vậy nay đồ đệ hãy ghi nhớ vào lòng 2 câu kệ này:

Tổ tổ tương truyền Phật tám phang
Sư sư tiếp thừa đại đạo hưng
Nay ta truyền các chánh thuyết cho ngươi lãnh cái Vô tự chơn kinh tối thượng thừa, mấy chỗ huyền cơ, đạo lý gắng mà lo giữ rốt sau sẽ thấy, chớ khá khinh khi. May có duyên với ta mới được cứu cánh, chuyển Đạo qua Thiền vốn thiệt là nhà ngươi may mắn lắm. Còn nếu chẳng gặp được ta thức tỉnh, ngươi cứ đi theo tà đạo, thì làm sao đặng ra khỏi khổ luân. 

Từ đây phải lấy đạo của Tam giáo làm gốc vì Tánh người cùng Tánh trời là một, đạo lý chẳng có khác sai, cho nên phải tồn tâm dưỡng tánh, tuân Khổng thánh chấp trung quán nhứt làm cho thông rõ được sáu kinh các sách, luận trị đời đại học, trung-dung để làm mẫu mực cho cái Tánh.
Tu tâm luyện tánh là do Đạo Tổ định, có Bảo ngươn thủ nhứt thì mới có nguồn đạo lớn trị đời, với năm ngàn quyển diệu huẩn mà chơn khuyết của Thanh tịnh kinh đều có ở bên trong. 
Minh tâm kiến tánh là gốc của Phật, muôn pháp đều tóm về một mối nghĩa lý sâu xa, ngàn kinh muôn sách là bằng chứng tối thượng thừa là mối của Tâm kinh
Long hớn kiếp, ban đầu là bốn chữ: mạng-tiên-thiên-long hoa thiệt là: nhiên-đăng-trung-thiên-xích-minh, sáu chữ mạng.

Thich Ca dâng chiếu chỉ, độ nguyên căn ở trước mặt, ba lần hội đã gần tới nên trời cao thương xót chúng sanh, sáu muôn năm lẻ khí dương gần dứt, chẳng nỡ bỏ Hoàng thai (là nguyên nhơn) trầm khổn khổ luân. Nên cung Diêu trì bèn xuống lệnh, sắc sai Di lặc phổ độ lai có chủ Phật Bồ tát hiệp lực, chuyển chín mươi hai ức nguyên nhơn trở về nguồn gốc, đồng hội cùng chư Tiên xuống phàm trần phổ độ. 

Còn ta vốn tây phương Phật chứng quả, vưng sắc Phật qua đông lâm, trước ta độ Lương võ đế không duyên còn bị ngọc côn thương thể. Sau độ Thần Quang đã thấy ngọn đèn tỏ rạng, nay ta gặp Tôn Hoành đổi tên là Tôn Chánh thì cũng được làm Phật tử cùng Phật Tôn.
Ta lo cho ngày sau chẳng bao lâu, nhứt khuê khai ngũ diệp (nghĩa là một bông đơm năm lá rồi dứt, là ý Đức Đạt Ma tiên tri ngày sau bên Trung Nguyên được ngũ tổ, kể thêm ngài là lục tổ đã có nói rồi trong khoản trước). Chừng đó ngàn nhà, muôn cửa đều đem cái giả xen vào cái chơn lộn lạo, rồi sau đó trời sẽ định ngôi, xuống lệnh trở về lại thời Chánh để phổ độ chúng sanh, ai ai đạo quả cũng thành.

Đến chừng thời mạt kiếp (tận thế) thì gặp hội long hoa, chừng đó trong cung Đẩu ngưu sẽ tra hỏi kẻ vô duyên bị đoạ lạc hồng trần, do bởi còn nhiều mê muội. Còn ta chẳng luận ngu hèn hay người trí cũng độ hết, dạy cho tham thiền, định và tịnh thâu hồi Lục trần, đến Huỳnh đình là thứ nhứt rồi đến Trúc cơ, Luyện kỹ phăng tới thứ nhì, rồi luyện thuốc thành Đơn, vận võ Hoả hầu, Mộc dục an dưỡng đến Châu thiên phân định 12 giờ công phu không ngừng nghỉ; Tiểu châu luyện tới Đại châu định 36 cung là đi về Tánh, một mảy trần đừng cho nhớ tới thì mới kết đặng thành Đơn.

Đơn kết lại rồi, cần ba năm nhũ bộ cho Anh nhi cứng cỏi, chín năm diện bích, nhứt kỹ phi thăng một mối khắp châu thân nên khá phân chỉ rõ, người tu cố lo công quả diên thành. Chờ có chiếu chỉ đơn thơ về dự hội Linh sơn để triều kiến Vương thân, có chin phẩm sen vàng ban thưởng cho chin mươi sáu ức nguyên căn, đồng đến cung Diêu trì dự hội Long hoa tam hội định công thọ thưởng: thượng thừa, trung thừa, hạ thừa thưởng y theo công quả. Khi được luận công thành hành mãn thì Tâm, Tâm đều thoả cùng với Thiên Địa đồng sống thọ bằng nhau, không hề cải đổi mà được tiêu diêu khoái lạc vậy”.
Nói rồi Lão Tổ đằng vân đi mất, Tôn Hoành cúi lạy thinh không tạ ơn giáo huấn.
                                                                                  
                                                                                         CHUNG

                                                                                                                                                          transi