Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

NGƯỜI KHÔNG VÌ MÌNH, TRỜI TRU ĐẤT DIỆT

Đó là câu ngạn ngữ của Á đông có nghĩa, một con người trong cuộc sống mà không biết vì mình thì sẽ bị trời tru đất diệt.
Mới nghe qua ai cũng cho như vậy là người quá hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết mình mà không biết đến mọi người...và thường bị chê trách hoặc là lên án.
Tuy mhiên nếu suy cho thấu tình đạt lý câu ngạn ngữ này, thì mới hiểu được sự tồn tại của nó trong suốt mấy ngàn năm qua và đã làm kim chỉ nam cho không biết bao nhiêu người, khi đã nhận diện được nội hàm bên trong của nó.
Thật vậy, con người khi đã bước chân vào cuộc sống mà không biết vì bản thân mình mà ra sức thực hiện những ước mơ, hoài bảo hầu tạo dựng công danh, sự nghiệp cho riêng mình, thì ai sẽ là người làm thế cho mình đây ? Không có ai cả !
Đã qua rồi thời thơ ấu, đã có đấng sanh thành vì mình mà lo toan mọi việc để cho mình được khôn lớn nên người. Giờ đã trưởng thành rồi mà không biết vì mình để ra sức học tập, trau dồi nhân cách và những kỷ năng cần thiết cho cuộc sống thì cho dù trời không tru, đất không diệt đi nữa thì  ta cũng không còn đầy đủ năng lực để mà tồn tại, chứ còn nói chi đến mọi việc trên đời này.
Tuy nhiên, khái niệm vì mình cũng tạm chia ra 2 tầng lớp Chính và Tà.
- Tầng lớp chân chính là những người có trí dũng, có hiểu biết về truyền thống đạo lý nhân bản của con người.
Tầng lớp này họ thông hiểu, vì mình cũng đồng nghĩa với vì mọi người, hay nói theo cách khác : Họ biết vì mình là để biết vì mọi người để khi hành xử trên các mối quan hệ họ vì mọi người như vì chính bản thân mình, đúng như lời thánh nhân đã dạy : Vi bỉ giả , do vi kỷ dã”.( Vì người như vì mình) Còn người không biết vì mình, thì họ cũng sẽ không biết đến việc phải vì ai?
- Cho nên tầng lớp này họ luôn tâm niệm, mình không biết vì mình mà tự chăm lo cho sức khỏe, bảo toàn thân thể thật tốt, thì bệnh tật sẽ kéo vào và khi đó sức khỏe bị suy tàn, cơ thể bị khiếm khuyết thì mọi toan tính, mọi ước mơ hoài bảo trong cuộc đời cũng sẽ không còn tìm đến nữa. Và như vậy thì cuộc sống của họ phải đối diện trước bệnh tật, đói nghèo và bị tất cả mọi người đều khinh khi, xa lánh. Đây có phải  là trời tru đất diệt không?
Còn trái lại, họ biết vì mình mà tích cực chăm sóc bản thân, giữ gìn sức khỏe tốt, thì những người thân cũng không phải bận tâm về sức khỏe, bệnh tật của mình. Khi đã có đầy đủ sức khỏe thì mình sẽ ra sức  học tập để làm việc, để yêu thương, đùm bộc, chỡ che hay giúp đở mọi người. Và điều quan trọng  là mình sẽ thực hiện được những ước mơ, hoài bảo và khi đó cũng là thời điểm tốt để ra sức phục vụ cho nhu cầu an sinh của xã hội.
Như vậy có phải họ vì mình cũng có nghĩa là vì mọi người trong xã hội không?
Về lĩnh vực khác, nếu họ không biết vì mình mà ra sức học tập, trau dồi về tư cách, đạo đức lẫn nghề nghiệp để mình có đầy đủ năng lực hành xử trên các mối quan hệ thân tình như : cha mẹ, anh em, vợ chồng và con cái thì làm sao họ có thể làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, tình nghĩa của vợ chồng, thâm tình cùng anh em, làm nghiêm đường để dưỡng dục con cái. Và làm sao để xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc được?
Còn như họ biết vì mình mà hành xử vuông tròn trên các mối quan hệ này, thì có phải là cha mẹ họ cũng sẽ được vui lòng, vợ chồng cũng được hòa thuận, con cái lại được thảo hiền, anh em thì tình như thủ túc và điều quan trọng là cả nhà đều yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng cho mái ấm của gia đình ngày càng hưng thịnh. Đó có phải là vì mình cũng có nghĩa là vì mọi người thân yêu nhất của gia đình mình không ?
Gia đình là tế bào của xã hội, mà có nhiều gia đình được ấm no hạnh phúc, thì có phải xã hội sẽ được phú cường không? .
Ngược lại, người không biết vì mình mà hành xử trên các mối quan hệ này, thì những bi kịch, những thảm họa từ các thành viên thân yêu nhất của gia đình này lần lượt đem lại mà tất cả mọi người đều phải đón nhận, trong đó xã hội cũng đương nhiên tiếp lấy những tế bào này. Đây có phải bị trời tru đất diệt không ?

- Người ta thường nói : Một năm bắt đầu từ mùa xuân, cuộc đời bắt đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc. Con người bước vào tuổi thanh niên, thì thể chất và trí tuệ đều được trưởng thành, nên họ đều có suy nghĩ riêng và hành động độc lập, cho nên ai cũng đều có nhiều ước mơ, hoài bảo. Nếu trong từng con người có duyên nghiệp với ngành nghề nào, thì những ước mơ hoài bảo kia sẽ biến thành sở thích, niềm đam mê theo ngành nghề đó. Như người thích ngành y học để trị bệnh cứu người, có người lại say mê kiến trúc, hội họa, nhà báo, nhà giáo, nhà ngoại giao, nhà vật lý, nhà toán học, nhà yêu nước.v.v...
Nếu họ biết vì mình mà ra sức học tập và rèn luyện ngành nghề này cho đến khi công thành, danh toại thì 2 chữ công danh sẽ là bằng chứng nhận địa vị của mình đối với xã hội. Lúc này thì mình mới có đầy đủ năng lực và tư cách của một người thầy thuốc, một kiến trúc sư, một quan chức công quyền... cùng nhiều cơ hội phục vụ lợi ích cho cộng đồng xã hội, thì có phải họ biết vì mình cũng là vì mọi người không ?

Còn trái lại họ không biết vì mình mà phấn đấu, thì coi như đường công danh sự nghiệp của riêng họ cũng sẽ bị khép lại và cũng đừng mơ tưởng đến địa vị công hầu, hoặc có công trạng gì với xã hội và đất nước. Ngoài ra họ họ cũng đừng mơ tưởng đến 1 cuộc sống tiện nghi, nhà cao cửa rộng, quyền quí cao sang. Và sau này họ cũng đừng than rằng: tại sao họ lại bị trời tru đất diệt đường công danh sự nghiệp của mình...

-         Tầng lớp thứ 2 là gian Tà.
Tầng lớp này là những người tiểu trí thiếu hiểu biết, thiếu hấp thụ về đạo lý nhân bản của con người, lại còn đam mê danh lợi.
Tầng lớp này họ cũng biết vì mình, nhưng mang nhiều đặc tính về bản năng của loài sinh vật hơn là của một con người. Có nghĩa là họ cũng biết vì mình nhưng lại không cần biết đến việc vì mọi người. Đó là loại người ích kỷ, hại nhân nên họ luôn dùng mọi thủ đoạn để mưu cầu lợi ích cho mình, cho bè đảng của mình và không cần biết những lợi ích kia là sự tước đoạt trên sự đau khổ, tang thương, chết chóc của biết bao nhiêu người, tùy theo môi trường, địa vị và lòng tham của họ.
Thông thường tầng lớp này họ chỉ trổi lên khi khí âm tà thắng thế, khí dương cương chính nghĩa bị suy vi, dù trong phạm vi của một gia đình hay một quốc gia cũng vậy. Họ cũng có đầu óc rất thông minh nhưng lại kèm theo nhiều mưu mô, gian xảo và họ  rất tôn thờ những chủ thuyết thực dụng, phi nhân bản.
Cho nên sự vì mình của họ cũng rất nhiều kênh, bằng mọi giá để có được công danh, địa vị và quyền lực trong xã hội để mưu cầu lợi ích. Một khi họ đã xác lập được quyền lực trong tay thì cũng là lúc họ dùng mọi thủ đoạn, kể cả xấu xa, tàn ác nhất để khống chế, đàn áp, bốc lột đến tận xương tủy của đồng loại mình, miễn sao cuộc sống của họ cùng bầy đàn thê tử được vinh thân phì da, mặc cho sinh linh đồ thán...
Tầng lớp này nếu họ thiết lập được quyền uy trong một gia đình, một cơ quan, thì họ sẽ là một ông chủ độc tài, bảo thủ chỉ là đúng, là phải là chân lý và bắt mọi người phải phục tùng vô điều kiện, không cần quan tâm đến những gì mà mọi người cần phải có...
- Nếu họ là một người thầy thuốc, thì họ sẽ tính sổ để kinh doanh với đồng loại của mình đang bị ốm đau, bệnh tật ; Nếu là nhà văn, nhà báo, nhà sử học thì họ sẽ bẽ cong ngòi bút để kinh doanh theo đơn đặt hàng của những người có thế lực, lẫn kim tiền.
- Nếu họ là nhà lãnh đạo của một quốc gia, thì họ sẽ trở thành nhà độc tài, toàn trị. Đối với họ, dưới trời này chỉ có họ mới là người có quyền uy tối thượng, luôn thi hành chính sách ngu dân, bắt mọi người phải luôn ngoan ngoãn thần phục. Nếu người nào có ý kiến khác, là họ  sẵn sàng  dùng mọi hình luật để khuất phục, trong đó có cả các hình phạt tàn nhẫn, vô nhân đạo và độc ác nhất để tiêu diệt.
Ngoài ra, đầu mối của mọi tệ nạn tham nhũng, bè phái, mua quan, bán nước, đục khoét  cạn kiệt tài nguyên của đất nước, sức sống của người dân, làm cho nước mất nhà tan làm băng hoại nền móng của xã hội... cũng xuất phát từ tầng lớp cai trị này ...   

Nói tóm lại, thông điệp của câu ngạn ngữ trên là thánh nhân xưa muốn nhắn gửi đến mọi người là phải biết vì mình mà trong đó phải có vì mọi người và vì mọi người thì cũng giống như vì bản thân mìnhVi bỉ giả , do vi kỷ dã”.   Nhằm làm  cho cuộc sống ai cũng biết vì mình mà luôn biết vì mọi người. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là nếu muốn vì mọi người, thì trước hết mình phải biết vì chính bản thân mình để tạo dựng thành công trạng, rồi sau đó mới nói đến việc vì mọi người, vì xã hội, vì quốc gia dân tộc được.
Vì con người có thông qua giai đoạn này, thì mới có đầy đủ tư cách và năng lực để thực hiện lời dạy của thánh hiền xưa.

                                                                    transi

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Tứ Hóa: Lộc Quyền Khoa Kỵ


Tứ Hóa


Hóa Lộc
Hóa Lộc thuộc Thổ, là thần phúc đức, hỉ gặp Lộc Tồn. Nhập miếu ở Dần Thân, tác dụng tốt đẹp rất lớn, lạc hãm ở cung Tý Ngọ Mão Dậu, tác dụng tốt đẹp khá nhỏ. Nhập Mệnh, là người hiền hòa, giỏi xã giao, nhân duyên tốt, tính tình hào phóng, vui vẻ hài hước, ở ngoài được người khác yêu mến, cả đời hưởng phúc. Hỉ nhập Mệnh, Thân, Quan, Tài, Di cung, chủ phú quý, thứ đến là nhập cung Phúc Đức, Điền Trạch.

Bất kể chính tinh nào hóa Lộc, tác dụng thuận lợi tăng gấp nhiều lần, đặc biệt hỉ Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Phá Quân Hóa Lộc. Hóa Lộc thủ Mệnh Thân và quan lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất làm quan to, kinh doanh cũng có thể trở thành phú ông. 
Hóa Lộc thủ Thân Mệnh, Quan Lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất là quan lớn, có thể kiếm được nhiều tiền, một đời hay gặp may mắn ngoài dự kiến và sự giúp đỡ của quý nhân.

Hóa Lộc và Lộc Tồn giáp Mệnh cung, là cách “Song Lộc giáp Mệnh”, chủ phú quý.
Mệnh có Hóa Lộc, mà cung ám hợp của Mệnh có Lộc Tồn, “Minh Lộc ám Lộc”, đại cát, là điềm càng tốt đẹp hơn. Mệnh cung có Lộc Tồn, mà cung ám hợp có Hóa Lộc cũng vậy.

Hóa Lộc là tư sản lưu động, mà Lộc Tồn là tư sản cố định, Hóa Lộc hỉ đồng cung hay hội chiếu với Lộc Tồn, Thiên Mã, là cách “Lộc Mã giao trì”, “Song Lộc triều viên”, cực kì tốt đẹp, đại phú hoặc đại quý.
Hóa Lộc ở cung Tý Ngọ cư Thiên Di, chủ người văn chương cái thế, là cách “Đối diện triều thiên”, Thái Dương ở Tý Ngọ Hóa Lộc là hợp cách.
Hóa Lộc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, không chủ tiền tài, có phát cũng chỉ hư hoa hào nhoáng, vì tiền bạc mà vất vả. Hoặc Hóa Lộc hãm ở Tý Ngọ Mão Dậu kiến sát tinh, cũng bất lợi. Sách viết: “Phát bất chủ tài, lộc chủ triền vu nhược địa”.
Bản cung và tam hợp cung có Hóa Lộc, nhưng bị Hóa Kỵ xung phá, là cách “Lộc phùng xung phá”, tốt cũng biến thành xấu, tất gặp tổn thất ngoài dự kiến, trèo cao té đau.
Hóa Lộc tối kỵ hung tinh xung phá, như đồng cung hội chiếu với Dương Đà Hỏa Linh, cách cục mất đi cái dẹp, tốt mã dẻ cùi, cũng không phú quý, hoặc vì phú quý mà rước hung họa.

Hóa Quyền
Hóa Quyền thuộc Mộc, là thần nắm quyền sinh sát, nhập miếu ở cung Sửu, không có hãm địa. Nhập Mệnh cung, chủ người tính tình ngoan cố, coi trọng quy tắc đạo đức, hành sự ổn trọng, tính nguyên tắc cao, có năng lực thống trị lãnh đạo rất tốt, kiên cường bất khuất, chuyện gì cũng không dễ dàng chấp nhận thất bại, tính tình kì quái, đi đến đâu cũng được mọi người kính trọng khâm phục, dễ được người khác tán thưởng. Hỉ nhập Mệnh Thân cung, Di cung, Quan Lộc, Tài Bạch cung, chủ có quyền thế. Hỉ hội Vũ Khúc, Cự Môn, tất làm đại sự. Sao này ở Mệnh, chuyên chủ quyền thế. 
Nữ mệnh Mệnh có Hóa Quyền, trong ngoài vừa ý, hội cát tinh có thể là bậc quý phu nhân.
Hóa Quyền thủ Thân Mệnh, Khoa Lộc tương phùng, là quan tướng, đại phú đại quý.
Hóa Quyền nhập cung Mệnh, cung Quan Lộc và có Cự Môn hay Vũ Khúc hội chiếu, tất nắm đại quyền, hoặc thống lĩnh trăm ngàn binh lính, võ chức quý hiển.

Hóa Quyền nhập Mệnh Thân, đồng cung với Hóa Khoa, tất văn chương đứng đầu, mọi người đều khâm phục kính nể, có danh tiếng trong giới văn nghệ, học thuật.
Hóa Quyền và Hóa Khoa giáp Mệnh Thân cung, chủ quý.
Hóa Quyền đồng cung hay hội chiếu với Hóa Lộc, tài quan song mỹ, cát tinh nhiều thì luận như trên, nếu hung tinh hội nhiều thì không luận là tốt, chủ hư danh hư lợi, hào nhoáng mà không thực.
Hóa Quyền và Hóa Lộc thủ cung Tài Bạch, cung Phúc Đức, xuất thế vinh hoa.
Hóa Quyền, Hóa Lộc cư cung Nô Bộc, tuy có quan quý cũng vất vả bôn ba.
Hóa Quyền hội Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Đại Hao Thiên Sứ, dễ nghe lời xằng bậy, tất có quan tai giáng chức, hoặc sự nghiệp gặp tổn thất.

Hóa Khoa
Hóa Khoa thuộc Thủy, đứng đầu trong thi cử, là thần về văn mặc, hỉ hội Khôi Việt. Nhập miếu vượng ở Sữu Ngọ Thân, hãm ở đất Tuần Không, Triệt Không, Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Nhật Nguyệt hãm địa. Nhập Mệnh Thân cung, chủ người thông minh ham học, khẩu tài lưu loát, có tài hoa về phương diện ngôn ngữ, văn chương, học tập ưu tú, được đánh giá cao, một đời dễ nổi tiếng. Thủ Thân Mệnh, Quyền Lộc tương phùng, thông minh. Nếu gặp ác tinh, cũng là tú tài văn chương, có thể là giáo viên. Hóa Khoa hỉ nhập Mệnh, Thân, Di cung. Cư Tài Bạch cung, Quan Lộc cung cũng tốt. 
Nữ mệnh cát tinh củng chiếu, có thể là quý phu nhân, dù Tứ Sát xung phá, cũng chủ phú quý, không có sát tinh hội chiếu thì dịu dàng thanh tú.
Hóa Khoa thủ Mệnh Thân, đồng cung hội chiếu với Hóa Quyền Hóa Lộc, là số đại quý, quan cao vinh hiển.

Tam phương tứ chính Mệnh nếu được Khoa Quyền Lộc hội chiếu, là cách “Khoa Quyền Lộc tam kì”, nếu chính tinh miếu vượng, là quý cách uy chấn thiên hạ.

Hóa Khoa Hóa Quyền giáp Mệnh, là quý cách.
Khoa Quyền đối củng, là người bỗng nhiên nổi tiếng, lưu tên bảng vàng, chủ quý.
Khoa Quyền Lộc Mệnh phùng hội cát tinh, quyền uy của bậc vương tướng chấn áp mọi người. Là cách có cả danh lẫn lộc.

Hóa Khoa thủ Mệnh, ám hợp với Hóa Lộc ở cung lục hợp, là cách “Khoa Minh Ám Lộc”, chủ quý, có thể là quan chức cấp tỉnh.
Hóa Khoa ở Mệnh, Hóa Quyền chiếu đến, vận thi cử rất tốt, đỗ hạng đầu.
Khoa hãm bởi hung thần (hãm do Triệt Không, Kiếp Không, Dương Đà, Nhật Nguyệt hãm), có tư chất nhưng không thành công, hào nhoáng mà không thực, khó có thể phát huy tài năng, cũng không giàu có.
Hóa Khoa đồng thủ Mệnh với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tam phương tứ chính hội một trong Tứ Sát Dương, Đà, Hỏa, Linh thì có tai họa ngục tù.
Hóa Kỵ
Hóa Kỵ thuộc Thủy, là sao kế đô, là đa quản chi thần, cũng là một hung tinh, nhập miếu ở Tý Sửu, lạc hãm ở Dần Ngọ Tuất Tỵ Hợi, có thể căn cứ vào sự khác nhau giữa chính tinh trong cung mà có tác dụng khác biệt. Hóa Kỵ nhập mệnh, là người thích suy nghĩ vào ngõ cụt, có xu hướng ngoan cố, cá tính mạnh, thích đố kỵ, hay đa nghi, thích quản chuyện không đâu, quan hệ xã hội không tốt, thường có xung đột với người khác, làm việc khi sắp thành thì lại thất bại.

Hóa Kỵ là sao bất hạnh, thường dẫn đến thất bại, hay gặp các tai họa như không vừa ý toại lòng, thất tình, thất nghiệp, phá sản, xung đột, tranh đấu, bệnh tật, thương tích, làm hỏng, thủ Thân Mệnh, một đời không thuận, hay rước thị phi. Trừ một số trường hợp nhỏ, nhập 12 hai cung thì đâu đâu cũng là hoa, có ý nghĩa phá hoại, duy gặp cát tinh nhập miếu thì có thể giảm bớt cái hung, nếu hội chiếu với hung tinh mà không gặp cát tinh thì không lường trước được tai họa. 
Nữ mệnh Hóa Kỵ nhập Mệnh Thân cung, lắm mồm, tính tình lanh lợi. Không hội cát tinh thì một đời vật chất khó khăn, chủ nghèo hèn. Hội hung tinh Hóa Kỵ họa nặng, nhiều cát tinh hội thì tai họa khá nhẹ.
Hóa Kỵ tại Mệnh Thân, di, độ hung cực lớn, chủ một đời không thuận, hay gặp trắc trở thất bại, tuy nhiên người này cũng không phải không có tài năng.

Hóa Kỵ ở Mệnh, người này hay đố kỵ với người hiền tài, bụng dạ nhỏ hẹp. Nếu không, bản thân cũng bị người khác xa lánh, đố kỵ, đấu đá lẫn nhau.
Người thủy nhị cục, Mệnh cung phùng Hóa Kỵ không đáng sợ. Bởi lẽ Hóa Kỵ thuộc thủy, người sinh thủy nhị cục phùng Hóa Kỵ, có thể nhờ tác dụng của sao Hóa Kỵ này mà đạt được thành tựu lớn hay nhỏ, nhưng cái hung của Hóa Kỵ cũng không vì vậy mà tan biến, người này vẫn gặp những điều không thuận lợi mà trên đây nói về Hóa Kỵ.

Thiên Đồng tại cung Tuất tọa Mệnh, người sinh năm Đinh đối cung Cự Môn tại Thìn Hóa Kỵ xung, lại tốt đẹp, chủ đại quý.

Cự Môn tại Thìn tọa Mệnh, người sinh năm Tân hội Văn Xương tại Mệnh hoặc đối cung Hóa Kỵ, lại luận là tốt, là kì cách, chủ đại phú đại quý.
Thái Dương, Thái Âm miếu vượng (Thái Dương ở cung Dần Thìn Tỵ Ngọ cung, Thái Âm ở Dậu Tuất Hợi Tý cung) Hóa Kỵ, không hung, lại luận là phúc, nếu Thái Âm Thái Dương cư lạc hãm hội Hóa Kỵ thì đại hung.
Các sao ở hãm địa hội Hóa Kỵ, cực kỵ.
Liêm Trinh tại hãm địa (tỵ hợi), Hóa Kỵ, càng kỵ, chủ đại hung, cư quan lộc thì có tù ngục kiện tụng.
Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tất gặp tai họa ngoài dự kiến.
Hóa Kỵ đồng thủ Mệnh với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, tượng đại hung, đa phần là số ngục tù, tàn phế, chết thảm.

Hóa Kỵ và Thiên Hình đồng thủ Mệnh, đại hung, là điềm chết ngoài đường, chết không toàn thây, hội Tứ Sát càng nguy hiểm. Gặp ở niên hạn, có chảy máu.
Hóa Kỵ thủ Mệnh, đồng cung với Tử Vi, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Khoa, Quyền, Lộc lại hội Dương Đà Hỏa Linh thì làm việc không dứt khoát, hoạnh phát hoạnh phá, không kiên trì, là số phát tài nhưng không bền.
Hóa Kỵ đồng cung với Sát, Phá, Tham, Liêm, Cự, Vũ, Cơ thủ Mệnh, tam phương tứ chính hội một trong Tứ Sát, có tai nạn tù ngục
PHỤ LUẬN
Hóa Khoa nhập Mệnh, dù cho phùng sát kỵ chư ác cũng chủ văn chương tú sĩ, tuy nhiên khó tránh khỏi thanh bần, nếu cung Phu Thê, Tử Nữ và Phúc Đức cung không tốt, còn chủ cô quả.
Quyết viết “Khoa tinh hãm vu hung thần, miêu nhi bất tú”, tức Hóa Khoa dữ Tứ Sát hoặc Sát Phá Liêm Tham Không Kiếp Hao Kỵ Tử Tuyệt Mộc Dục đồng cung tại Mệnh, đa phần chủ khoa danh vô vọng, chỉ hao phí tinh thần mà thôi.
Hóa Khoa thủ mệnh, bình thường tính chất chủ danh dự rõ rệt, nhưng nếu phùng Sát diệu, ngược lại là chủ tự thủ lợi ngầm, thanh thế hư ảo.
Hóa Khoa không thích đồng cung Kiếp Không [Kiếp Không là khuynh gia đãng sản (mất tài sản)] chủ trở ngại, trôi mất, hư danh; hoặc chủ thanh vọng ở phạm vi hết sức mờ nhạt; cũng chủ là nghiên cứu triết học tôn giáo.

(Nguồn: Theo http://kiennd.com/)

Tham Lang


Tham Lang


Tham Lang thuộc Thủy Mộc, Bắc Đẩu đệ nhất tinh, hóa Đào Hoa Sát, chủ họa phúc.
Nhập miếu là người béo đứng thẳng, xương mày khá cao, lạc hãm thì thấp nhỏ, tiếng cao âm lượng lớn. Người có Tham Lang nhập Mệnh, vô cùng tình cảm hóa, tính cách đều tương đối phức tạp, không ổn định, hiếu động, giỏi xa giao tiệc nhậu, một đời hay kết giao bạn bè, bản tính lạc quan, đam mê dục vọng vật chất, thích ăn uống hưởng lạc, rượu chè cờ bạc trai gái không gì là không thể. Là người không câu nệ tiểu tiết, tình cảm thăng trầm nhiều biến động lớn, có lúc thích khôn vặt, cho người khác những ân huệ nhỏ. Khẩu tài lưu loát, khoe khoang, thích thổi phồng, chủ đề bàn luận phong phú, có khuynh hướng hào nhoáng mà không thực. Tâm lý hên xui rất lớn, tính hích đầu cơ, mạo hiểm, hi vọng có thể một sớm một chiều có kì tích hoạch phát xảy ra, làm việc không đủ kiên nhẫn. Đối với tiền bạc khá rộng rãi, lãng phí, một đời tài vật cũng nhiều hư hao. Trong cuộc sống thích được kích thích, thứ gì mới lạ, hợp ý, không chịu cảnh bình thường, không vừa lòng với hiện trạng, luôn hi vọng có sự đột phá trong công việc, vì vậy mới tồn tại cái tật xấu làm không đến nơi đến chốn. Tham Lang thủ Mệnh thích thuật thần tiên, thích nghiên cứu và tìm hiểu thảo luận về văn hóa thần bí khí công tăng đạo. Tính tính khá gấp, hay tính toán, không chịu tĩnh lặng, ham cờ bạc hoa tửu, háo sắc. Người có Tham Lang nhập Mệnh, bất luận nam hay nữ, trừ một số ngoại lệ cực kì cá biệt, tuyệt đại đa số đều có đào hoa hay có ngoại ngộ.

Nữ mệnh, gợi cảm, sớm trưởng thành, thân thể phổng phao có sức thu hút, tính dục cao, chí cao tính cương, xã giao rộng.

Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân ba sao này luôn luôn hội chiếu lẫn nhau, chủ khai sáng cải cách, phá bỏ cái cũ xây dựng cái mới và sự xung kích lớn. Tham Lang hội cát tinh (Phụ Bật, Khôi Việt, Lộc Tồn, Hóa Quyền, Hóa Lộc…) thì là nhân vật quan trọng trong quân đội chính trị, lãnh đạo giới thương gia, phú quý danh tiếng, hội ác sát thì ham tửu sắc, thích cờ bạc, thích ăn chơi hưởng lạc, rượu chè hoa nguyệt.

Tham Lang là đại đào hoa tinh, không thể thoát khỏi sự cám dỗ của sắc tình, Dương Đà hội chiếu, nam mệnh một đời đào hoa nhiều, cũng có sở thích đi chơi gái; nữ mệnh thì dâm đãng, tự do tình dục, Mệnh Thân hai cung có sát tinh e là ca kĩ. Sách viết: “Tham Lang gia sát đồng hương, nữ thâu hương nhi nam thủ thiết”. Tham Lang ở Mệnh, Thất Sát thủ Thân, hội sát diệu, chủ người vụng trộm dâm bồn, nam thì khoét vách, nữ thì vụng trộm. Tham Lang ở Mệnh, Phá Quân thủ Thân, hội sát diệu và Thiên Mã, nam nữ tính thích du đãng, đam mê rượu chè cờ bạc, coi sắc như sinh Mệnh; nữ mệnh lông bông, không ở yên trong nhà, thích giao du kết bạn, thông tư hay dâm bồn với người khác, vì vậy sách viết: “Hao (tức Phá Quân) gặp Tham Lang, sính dâm tình vu tỉnh đế”.

Tham Lang cư Tý Hợi, là phiếm thủy đào hoa, chủ dâm dục, hội Dương Đà, tất là quỷ đói háo sắc, nữ mệnh ai cũng có thể làm chồng.

Tham Lang hội Địa Kiếp, Địa Không, Tuần không, Địa Không va Thiên Hình đồng cung thì không luạn là dâm dục, có thể đứng đắn, đa phần nhiều tín ngưỡng tôn giáo ngoan đạo, cũng thanh bạch đoan chính.

Tham Lang hỉ đồng cung và hội chiếu với Hỏa Tinh, Linh Tinh (tam hợp hội Vũ Khúc càng đẹp), luận là phú quý, có ý nghĩa là vận may không ngờ đến, hoặc chủ võ chức quý hiển. Hội Hỏa Tinh là cách “Hỏa Tham đồng hành”, danh vọng cao, có thể bạo phát; hội Linh Tinh là cách “Tham Linh tương phùng”, có thể nắm quyền, kinh doanh làm ông chủ, tài vận hoạnh phát. Sách viết: “Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng, danh chấn chư bang” (an Mệnh tứ mộ, tam phương cát tinh củng chiếu đặc biệt đẹp. An Mệnh ở Mão cung, thứ đến không có sát tinh, có Dương Đà Không Kiếp thì không hợp cách trên), “Tham Linh tịnh thủ, tướng tượng chi danh” (an Mệnh ở cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý, hội cát tinh, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cách), “Tham Lang Hỏa Linh tứ mộ cung, phú hào gia tư hầu bá quý” (cung Thìn Tuất đẹp, thứ đến cung Sửu Mùi, nếu thủ chiếu có thể luận là tốt, hội Dương Đà Không Kiếp không hợp cách trên).

Tham Lang nhập miếu thọ nguyên cao, hoặc Tham Lang hội cát tinh, lại tọa cung Dần Thân Tỵ Hợi ở Trường Sinh, chủ sống thọ.

Tham Lang Tử Vi đồng cung ở Mão dậu, vô chế, là người vô dụng, được Phụ Bật Xương Khúc giáp chế, không luận như trên.

Tham Lang Vũ Khúc đồng cung, tiền bần hậu phú, sau 30 phát phúc, nhưng là người keo kiệt, vì lợi ích của bản thân mà hại người khác.

Tham Lang Vũ Khúc đồng thủ Thân cung, không có cát tinh Mệnh không thọ. Mệnh không có cát tinh, Thân cung là Vũ Khúc Tham Lang, chủ nghèo.

Tham Vũ đồng hành hội cát tinh, chủ người uy oai chấn áp biên cương.

Tham Lang đồng cung với Xương Khúc, là người đa hư thiểu thực, cho người khác cảm giác giả dối, giỏi lừa bịp.

Tham Lang Kình Dương cư cung Ngọ, người sinh năm Bính Mậu trấn thủ biên cương, là cách “Mã đầu đới tiễn”, phú quý.
Tham Lang nhập Mệnh, người sinh năm Thân Tý Thìn Mệnh tọa cung Tý; người sinh năm Dần Ngọ Tuất Mệnh tọa cung Ngọ; người sinh năm Hợi mão Mùi Mệnh tọa cung Mão; người sinh năm Tỵ Dậu Mệnh tọa Dậu cung, là cách “Tham hội vượng cung”, chủ người có thể bản tính bất chính, đam mê hưởng thụ vật chất, thị phi không rõ ràng, có lúc hồ đồ, không tụ tài, một đời thành tựu không lớn, hội sát tinh có hành vi trộm cắp.

Tham Lang đồng cung với Liêm Trinh tại Tỵ Hợi, nam phóng đãng, nữ đa dâm. Chủ người không thuần khiết, họi sát tinh tửu sắc đeo bám, gặp kiện tùng hình phạt, nghèo khổ, phá tướng, tàn tật.

Tham Lang Hóa Lộc, tài vượng, quen biết khắp thiên hạ, may mắn ngoài dự kiến, đa phần xinh đẹp, được sự trợ giúp của người khác phái, hội Hỏa Linh bạo phát.

Tham Lang Hóa Quyền, có quyền bính, danh vọng cao, thích hưởng thụ, có vận hên ngoài ý muốn, tài vận tốt.

Tham Lang Hóa Kỵ, thích tửu sắc, nhiều thị phi, dễ có hình thương ngục tù, bệnh tật nhiều ở nửa người dưới. Tham Lang ở Thìn Tuất không sợ Hóa Kỵ, Người Tham Lang thủy nhị cục không sợ Hóa Kỵ.
Tham Lang nhập Mệnh, là cao thủ “không thủ đạo”, giỏi thông qua các mối quan hệ xã hội mà đạt được mục đích, tay không kiếm lợi, không thích hợp với cái gọi là “chăm chỉ làm lụng mà giàu”, thích hợp với nghề nghiệp đầu cơ, công việc mang tính xã giao, thích hợp diễn xuất, kĩ thuật, văn hóa, ẩm thực, chứng khoán, tài chính, quảng cáo, công ty du lịch, xuất khẩu, quan hệ công chúng, bộ giáo dục… không ít những người kinh doanh cá thể, chủ công ty là Mệnh Tham Lang.

Tham Lang tại Tý Ngọ

Vượng cung, độc thủ. Người sinh năm Đinh Kỷ phúc dày, Xương Khúc đồng cung, đa hư thiểu thực, chủ người có khẩu tài tốt, giỏi đối nhân xử thế, có tu dưỡng, thích văn học nghệ thuật, tình cảm khá phức tạp, hay tưởng tưởng.

Tham Lang ở Tý, Người sinh năm Bính Mậu Canh và Dần Thân thì hạ cách, Tả Hữu Xương Khúc hội chiếu thì hoạnh phát hoạnh phá. Người sinh năm Thân Tý Thìn, cả đời không có thành tựu. Hỏa Linh đồng cung, hội cát tinh, người sinh năm Mậu Kỷ, là bậc tướng quân. Kình Dương đồng cung, làm nghề giết mổ, làm những công việc thấp hèn, nếu như hội Tả Hữu Xương Khúc thì có thể làm ông chủ, một đời tất gặp thất bại phá sản lớn, cũng khó mà đứng dậy. Kình Dương đồng cung hoặc hội Kình Dương Đà La, cũng hội Đào Hoa chư diệu, là phiếm thủy đào hoa, chủ dâm dục cùng cực, vì sắc mà diệt thân.

Tham Lang tại Ngọ, Mộc Hỏa sáng rực rỡ, chỉ người thông minh có thành tựu, người sinh năm Đinh Kỷ phúc dày, người sinh năm Canh và Dần Thân cả đời không có thành tựu. Người sinh năm Bính Mậu, Kình Dương đồng cung lại tốt, là cách “mã đầu đới tiễn”, phú quý. Thích hợp võ nghiệp, kinh doanh, cũng chủ người rời xa quê hương, lập nghiệp bên ngoài. Nữ mệnh nếu gặp các trên thì chủ dâm tiện, đa phần dùng tiền mờ ám để xây dựng nhà cửa.

Tham Lang tại Sửu Mùi, Vũ Khúc đồng cung
Vũ Khúc tại Sửu Mùi, Tham Lang đồng cung là cách “Tham Vũ đồng hành”, Vũ Khúc là tài tinh, Thái Dương ở Dần Thân, Thái Âm ở Tý Sửu giáp, nên còn gọi là cách “Nhật Nguyệt giáp tài”. Sách viết: “Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân”, “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập dĩ phát phúc”, “Nhật Nguyệt giáp tài gia cát diệu, bất quyền tắc phú” , “Tiền bần hậu phú, Vũ Tham đồng Thân Mệnh chi cung”.
Cách cục này đa phần là tiền bần hậu phú, khi trẻ vất vả hay là người bình thường, sau 30 tuổi vận khí hanh thông, tài vận rất vượng. Tả Hữu Xương Khúc tại tam hợp hội chiếu hay ở cung giáp đến hỗ trợ Mệnh, là cách tốt đẹp. Hội Hỏa Linh, thượng cách, tất hoạnh phát, đa phần là thương nhân, chủ quản, ông chủ. Người sinh năm Mậu Kỷ Canh Tân, kiến Hỏa Linh đồng cung là quý cách. Người sinh năm Quý bạo phát, nhưng không bền. Người sinh năm Giáp tọa quý hướng quý, Đà La nhập miếu, Khoa Quyền Lộc củng chiếu, kinh doanh đại phú. Lập Mệnh ở Mùi, người sinh năm Canh Vũ Khúc Hóa Quyền, tọa quý hướng quý, cách tốt đẹp.

Vũ Tham Sửu Mùi, có đào hoa, là người keo kiệt gian xảo, bụng dạ nhỏ nhen, lòng tham vô đáy, miệng phật tâm xà, tự tư tự lợi, hội hung tinh càng xấu, luôn nhen nhóm làm giàu bất chính cho bản thân, không giúp đỡ cứu tế người khác.

Nữ mệnh có tính chất thần kinh, keo kiệt, ngôn từ giả dối, lòng tham vô đáy.

Tham Lang tại Dần Thân

Tham Lang bình hòa, đối cung Liêm Trinh, đa tài đa nghệ, giỏi xử lý công việc, chí khí cao ngạo, thích chính trị.

Văn Xương hoặc Văn Khúc đồng cung, chủ người đa hư thiểu thực. Người sinh năm Canh, tài quan song mỹ. Người sinh năm Giáp Mậu Kỷ, thích hợp kinh doanh phát tài, hội Hỏa Linh, đột ngột hoạnh phát tiền tài, đại phú quý.

Tham Lang tại Dần, hội Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, có thành tựu. Đà La đồng cung, phong lưu, dâm loạn, vì sắc mà dẫn đến họa. Hội Kình Dương, Thiên Hình, có tai họa tù ngục.

Tham Lang tại Thân, bắt nguồn từ Kim sinh Thủy, một đời bôn ba, phải chịu gian khổ sau mới thành công, cũng có một giai đoạn phát tài. Chủ người trí tuệ hơn người, người sinh năm Giáp Mậu Kỷ Canh phú quý. Người sinh năm Quý, Mộc phùng Kim chế, Quyền Lộc giáp Mệnh, Song lộc triều viên, hội Hỏa Linh cực quý, lại hội thêm Tả Hữu thì danh chấn thiên hạ. Người sinh năm Tân Đà La đồng cung, là người giết mổ, địa vị thấp.

Tham Lang tại Mão dậu, Tử Vi đồng cung

Tử Vi tại Mão Dậu, Tham Lang đồng cung, là người khá hào sảng thẳng thắn, phản ứng nhanh nhẹn, tiêu tiền hào phóng, giỏi xã giao, đầu óc linh hoạt, có năng lực ngoại giao và năng lực làm việc tốt.

Tham Lang là đại đào hoa tinh, đồng cung với Tử Vi ở Mão Dậu, là cách cục “Đào hoa phạm chủ”, háo tửu sắc, là người phong lưu, tươi đẹp, ngộ Đào Hoa, Mộc Dục, Thiên Hỉ, Hóa Khoa, Đại Hao tinh tất dâm không thể nói hết được.

Dữ một trong các sao Lộc Tồn, Tả Phụ, Hữu Bật, Xương Khúc, Văn Xương, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung thì có thể luận là tốt, cát tinh càng nhiều thì phú quý càng nhiều. Nếu không có Phụ Bật Xương Khúc giáp chế, tất đào hoa phạm chủ thì là người vô dụng, bất trung bất nghĩa, tâm thuật bất chính, gian trá, thường giao thiệp qua lại với những người không ra sao. Đồng cung với Xương Khúc, có phú quý nắm quyền, quan vận thanh danh, nhưng là người đa hư thiểu thực, nói không giữ tín.

Thấy Hỏa Tinh hay Linh Tinh đồng cung, là quý cách, có Hỏa Linh hội cũng là quý cách, nếu Hỏa Linh ở Mệnh cung thì càng đẹp. Người sinh năm Ất Mậu Kỷ Tân Nhâm thì tốt, thuận lợi. Người sinh năm Giáp Canh dù quý nhưng không được dài lâu. Hội Không Kiếp Tứ Sát, tôn giáo tin ngưỡng hoặc là tăng ni đạo sĩ, hoặc là thuật sĩ giang hồ.

Không Kiếp đồng cung tại Mệnh cung, giỏi thuật thần tiên, có nhiều nghiên cứu và sở thích với tôn giáp, chiêm bốc, đông y, thần học, khí công… nếu theo đuổi tu luyện khí công hay pháp thuật có thể đạt trình độ tương đối cao.

Vũ Khúc Phá Quân thủ Tài Bạch cung, hội sát tinh đồng cung, bản tính lãng phí, không tụ tài, tiền tài đến tay thì hóa hư không.

Nữ giới, đa phần gợi cảm, dung mạo xinh đẹp, được nhiều người theo đuổi, cuộc sống tình cảm cuộc sống không bình ổn, tình yêu không thuận, tất phải trải qua nhiều lần yêu đương. Hội Dương Đà Xương Khúc Thiên Riêu, nhu cầu đời sống tình dục lớn, dâm dục, cả đời có nhiều quan hệ với nam giới, hay lạc vào chốn phong trần, làm thân ca kĩ, cung Phu Thê, cung Tử Tức, cung Phúc Đức nếu gặp hung tinh thì càng nguy hiểm.

Tham Lang độc tọa tại Thìn Tuất

Tham Lang tại Thìn Tuất nhập miếu độc thủ, đối cung Vũ Khúc, hội cát tinh, có thể là thương gia tài ba, sau 30 tuổi tất phát đạt.

Thìn là thiên la, Tuất là địa võng, hội Hỏa Linh, giúp thoát khỏi thiên la địa võng, nếu không có Dương Đà không kiếp thì có thể phú quý, là chủ quản, ông chủ, thương gia lớn hay võ chức cấp cao.

Người sinh năm Mậu Kỷ tài quan song mỹ. Người sinh năm Quý, phúc không bền.
Người sinh năm Thìn Tuất Sửu Mùi, lạc không vong, lại là chính không phải tà, lạc vào đất Triệt không cũng vậy, không có hành vi bất lương, đa phần có chuyên môn kĩ thuật hoặc thành danh nhờ kĩ nghệ. Thiên Hình đồng cung, võ quý, thích hợp phát triển trong giới quân đội, chính trị.

Hội cát tinh, sống thọ.

Xương Khúc đồng cung, đa hư thiểu thực, hào nhoáng, thích hợp làm các công việc giáo dục. Dương Đà đồng cung, nam nữ tà dâm, là người giết mổ.

Tham Lang tại Tỵ Hơi, Liêm Trinh đồng cung

Tham Lang tại Tỵ Hơi, Liêm Trinh đồng cung, hai sao trên đều hãm địa, cách cục khá kém.

Liêm Tham Tỵ Hợi, Thân hình trung bình, da trắng vàng, không béo không gầy, quan hệ xã giao viên mãn, ngôn từ phong phú, ít có chủ kiến, tình cảm xung động, tính tính dễ yêu dễ ghét, không cố định. Hai sao này đồng cung, nhiều người đành giá thấp, Tham Lang là đại đào hoa tinh, Liêm Trinh là thứ đào hoa tinh, Nam mệnh được cách này tất là kẻ háo sắc, thích dâm lạc, cờ bạc rượu chè. Hội hung tinh, vì tửu sắc mà chết . Sách viết: “Liêm Lang Tỵ hợi cung, ngộ cát lộc doanh phong. ứng quá tam tuần hậu, tu phòng bất thiện chung”, một đời thường gặp hung nguy, sát tinh nhiều thì đoản mệnh.

Nữ mệnh thì phóng tung đa dâm, thủy tính dương hoa, hôn nhân tất có biến. Đồng cung hay hội chiếu với Tứ Sát, Thiên Riêu, Đào hoa thì dâm dục vô sỉ, là ca kĩ. Nữ mệnh Liêm Tham thủ mệnh đa phần là vợ hai, hoặc cưới người đã từng ly hôn.

Hội Thiên Mã, đa phần chủ sớm rời xa quê, ra ngoài mưu tính phát triển. Có thể tòng quân, hoặc chủ người phiêu bạt khắp nơi, một đời bôn ba không yên, hội hung tinh thì hạ tiện nghèo khó, rời xa tổ tông, chết ở đất khách.

Xương Khúc đồng cung, là người đa hư thiểu thực, tính cách ti tiện, cần phòng nạn xe cộ, tai nạn trên không, hoặc từ trên cao rơi xuống ngoài dự kiến mà dẫn đến tử vong. Xương Khúc và Hóa Kỵ đồng cung, người sinh năm Bính tất có đại hoa, thường đột tử.

Người sinh năm Bính Tham Lang Hóa Lộc, cũng hội Lộc Tồn, hội Hỏa Linh đồng cung chủ đại phú quý, hoặc là lãnh đạo cấp cao trong quân đội, trong giới chính trị hay là anh hùng thảo khấu nổi tiếng giang hồ, hay là cự phú trong giới thương gia.

Liêm Tham tại Tỵ, người sinh năm Canh hội Kình Dương ở Dậu, khó tránh tù ngục, người sinh năm Tân Lộc Tồn tại Dậu, có thể có phú quý, nhưng không bền.

Liêm Tham tại Hợi, là cách “Phiếm thủy đào hoa”, người sinh năm Nhâm phú quý, nhưng phúc không bền; người sinh năm Giáp hội Kình Dương tại Mão, khó tránh tù ngục; người sinh năm Quý Đà la Kỵ đồng cung, không theo chính nghiệp, làm hoạt động phi pháp, hoặc mánh khóe không ra sao, đa phần là số nghèo, phá tướng, tàn tật, chết yểu.

(Nguồn: Theo http://kiennd.com/)

Thất Sát


Thất Sát


Thuộc Hỏa, Kim, Nam Đẩu đệ lục tinh, là Tướng tinh, hóa Đế vi Quyền
Người có Thất Sát nhập Mệnh, mắt to, xương mày nổi bật, mắt có vẻ uy nghiêm, khuôn mặt vuông dài hoặc gầy dài, có nếp nhăn, trên mặt có nhiều vết đốm hoặc rỗ. Thân thể có thương tích, nhập miếu béo, lạc hãm thì gầy nhỏ, vẻ ngoài tháo vát pha lẫn sức khỏe. Hành vi phóng khoáng ngang tàng, không câu nệ tiểu tiết, tốc độ đi nhanh. Cá tính vô cùng hiếu thắng, quật cường cứng rắn, có sự tự chủ độc lập, có khí khái bất khuất, tính tình dữ dội, dễ nổi cáu, hỉ nộ ái ố thể hiện trên khuôn mặt. Không thích bị người khác can thiệp ràng buộc, sự độc lập lớn, dũng cảm, có dũng khí và sự thực hành, đối mặt với khó khăn sẽ dũng cảm tiến về phía trước, tuyệt đối không sợ hãi. Là người thích đầu cơ mạo hiểm, không sợ không làm được, chỉ sợ không nghĩ ra, trong cuộc sống là kiểu người khai sáng tiến công. Có mưu lược, có năng lực lãnh đạo thống lĩnh tốt, chỉ có điều tính tình quá gấp gáp, thường bực tức, dễ coi cấp trên là vô dụng, nên có tâm lý phạm thượng, đối với cấp dưới, bạn bè thì tương đối khoan dung. Thành bại một đời thường đến rất đột ngột, bất luận nam hay nữ, đều phải trải qua khó khăn mới có thành tựu.
Nữ mệnh Thất Sát, tính tình hướng ngoại, hoạt bát hào phóng, có khí chất, tính cương, làm việc già dặn, có tinh thần trượng nghĩa, thích giúp người, thuộc loại hình của công việc, không có hứng thú gì với chuyện làm vợ hiền mẹ tốt, sau khi kết hôn tất đoạt quyền chồng, chồng phải nghe lời vợ.

Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân ba sao này luôn luôn hội chiếu lẫn nhau, chủ khai sáng cải cách, phá bỏ cái cũ xây dựng cái mới và có tính xung kích cao.

Thất Sát là Tướng tinh, hội cát tinh (Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa…) là nhân vật quan trọng trong quân đội chính trị, lãnh đạo giới thương nhân, phú quý nổi danh, hội ác sát thì hình thương, bạo bại, tàn tật, ngục tù, đoản mệnh, nghèo khó.
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ, một đời tước lộc vinh xương. Thất Sát tại Dần, Tý là cách “Thất Sát ngưỡng đẩu”, tại Ngọ, Thân là cách “Thất Sát triều đẩu”, là bậc anh hùng hào kiệt, công danh phú quý, hội sát tinh thì không phải.

Thất Sát thủ Mệnh, Thân cung là đoản Mệnh, dù miếu hãm có hay không có cát tinh đều vây. Thất Sát lâm Mệnh Thân cung đa phần là người khó sống thọ, hối át tinh càng đúng. Vì vậy người có Thất Sát tọa Mệnh chỉ có hành thiện tích đức, không làm việc ác, mới có thẻ tránh được số đoản Mệnh.
Thất Sát thủ Mệnh, miếu vượng, được Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, nắm quyền sinh sát, phú quý xuất chúng, nếu có hung tinh hội chiếu thì vẫn được phú quý, nhưng nhiều trắc trở, thường gặp hung hiểm, hoặc không có kết cục tốt.

Thất Sát nhập Mệnh Thân cung, bất luận có cát tinh hay không, đều phải trải qua gian khổ. Không hội cát tinh cát hóa mà hội sát tinh thì tất chết yểu.
Thất Sát cư nhàn hãm cung (Mão Dậu), kĩ nghệ an thân, hội Lộc Tồn chủ phú quý, lại hội Xương Khúc thì chủ lênh đênh.

Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh hội sát tinh, chủ tàn phế, cũng chủ bệnh lao, chết yểu.
Thất Sát Liêm Trinh đồng cung, “Lộ thượng mai thi”. Cách này là cách “Sát củng Liêm Trinh”, cư Thân Mệnh cung hội sát tinh thì chủ lang bạt, chết ở đất khách. Nếu không luận là phạm tội, khó tránh ngục tù, cung Di cũng vậy, lấy người phối ngẫu phương xa.

Thất Sát nhập Mệnh, là người phá tướng và có tai họa máu chảy, chỉ là mức độ nặng nhẹ không giống nhau. “Thất Sát trùng phùng Tứ Sát, yêu đà bối khúc, trận trung vong, cư tật ách cung diệc sát”. Đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh, là hỏa cực lớn, một đời nhiều tai nạn khó khăn, có bệnh, tàn tật thì có thể sống lâu thêm, không tất chết yểu. Thất Sát đồng cung với ác sát, tâm tính hiểm độc, nếu không cũng chủ thô bạo, hỉ nộ vô thường, thường có khuynh hướng bạo lực phạm tội.
Thất Sát thủ Mệnh, tam phương tứ chính có Kình Dương (hoặc Đà La), Hỏa Tinh (hoặc Linh Tinh), Bạch Hổ, Thiên Hình, tất là đầu mắt của xã hội đen. Người có Thất Sát ở Mệnh hội sát thì hai con đường đen trăng đều có phần.

Thất Sát, Phá Quân phân nhau thủ Mệnh Thân cung, thường thủ công tinh thông, là số lao lực, bôn ba ở ngoài.
Thất Sát cư tuyệt địa, hội Dương Đà, chủ bần tiện, hoặc chết yểu, dù có tài hoa cũng sẽ tàn.
Thất Sát hội Dương Đà ở đất Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi), là người giết mổ.
Thất Sát lạc không vong, mất hết uy lực. Người đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, Tuần không, Triệt không thì lục thân duyên bạc, cô độc không trợ giúp, đa phần là người không màng danh lợi hoặc theo con đường tăng đạo.

Thất Sát chủ hoạnh thành hoạnh phá, một đời thay đổi đa đoan, thăng trầm bất định. Nhập Mệnh cung, thường là tay trắng dựng nghiệp. Hoặc từ không một xu dính túi lại tiền dắt đầy người, hoặc trong lúc công thành danh toại lại một chiều phá bại, tiền bạc tán hết.
Sao Thất Sát nhập Mệnh, kinh doanh hay làm nhà nước đều được, nếu kinh doanh thì chỉ buôn bán là được, nếu đầu cơ tất có nguy hiểm khuynh gia bại sản. Đa phần làm các công việc có tính sáng tạo mạo hiểm như kiến trúc, trùng tu, sinh sản, cơ khí, xe cộ, vận tải, bác sỹ, võ thuật, vận động viện, cảnh sát, quân đội, chứng khoán, tài chính, xuất khẩu, chủ công ty,…. Hội cát tinh thì phú quý, không hội cát tinh thì là nhân viên bình thường.

Nữ mệnh Thất Sát, có khí khái nam nhi, thích lấy kinh doanh làm niềm vui, một đời thường vất vả, phúc không đẹp hoàn toàn. Hội nhiều cát tinh (Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt, Lộc Tồn, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa) củng chiếu thì là nữ trung hào kiệt, thành tựu phi phàm, không hội cát tinh mà hội sát tinh thì hôn nhân không tốt, hình khắc, cô đơn, một đời nhiều hung họa.
Thất Sát đồng cung hội chiếu với Văn Xương Văn Khúc, đại cát, chủ người thông minh quả quyết, thường là nhân vật lãnh đạo.
Thất Sát đồng cung hội chiếu với Tả Hữu, đại cát, lỗi lạc, có khí khái anh hùng, năng lực thống trị mạnh, nhận sự giúp đỡ của nhiều người, dễ thành đại nghiệp.
Thất Sát đồng cung với Lộc Tồn, đại cát, vốn có duyên với tiền bạc, kinh doanh có thể thành cự phú.

Thất Sát tại Tý Ngọ
Thất Sát vượng, đối cung là Vũ Khúc Thiên Phủ, chủ người kiên cường, cương nghị, có mưu lược, có tính độc lập và tự chủ, có năng lực lãnh đạo mạnh, một đời thường được quý nhân nâng đỡ, dù hội cát tinh nhưng vẫn phải trải qua gian khổ. Cách “Thất Sát triều (ngưỡng) đẩu”, cát tinh hội chiếu, một đời tước lộc vinh xương. Hội Tứ Sát hay các ác sát tinh không phải cách trên. Không hội Tứ Sát, là người tích góp mà giàu có. Phụ Bật Xương Khúc củng chiếu, nắm quyền sinh sát, phú quý xuất chúng.
Tứ Sát xung phá, nếu không tàn tật chết yểu, cũng chủ gặp hung họa ngoài dự kiến mà tử vong, chiến trận đa hung, có nguy hiểm tử trận.

Thất Sát tại Ngọ thủ Mệnh, Liêm Trinh thủ Thân, hoặc Liêm Trinh Thất Sát đồng cung tại Mùi, là cách “Hùng túc triều viên”, chủ người phong thái khoáng đạt, lòng dạ đơn giản, hội cát tinh thì đều bước nhẹ lên mây xanh, danh tiếng vang xa. Người sinh năm Giáp Đinh Kỷ, tài quan song mỹ. Người sinh năm Giáp, cung quan lộc Phá Quân Hóa Quyền, đối cung Vũ Khúc Hóa Khoa; người sinh năm Đinh, cung Ngọ có Lộc Tồn; người sinh năm Kỷ, cung ngọ Lộc Tồn và Vũ Khúc Hóa Lộc, đều phù trợ cho Thất Sát xây dựng thành đại sự đại nghiệp.
Người sinh năm Bính Mậu, trung bình, do hội Dương đà. Chủ người dũng cảm, thô bạo, thích mạo hiểm, tự cho mình đúng, thích mềm không thích cứng, vì cầu tiền tài mà bại trận, buất khuất. Đa phần là người vung tiền như rác, hoạnh phát hoạnh phá. Thất Sát tại Ngọ, người sinh năm Bính Mậu Kình dương đồng cung, tam hợp hội cát tinh, là tướng lĩnh trấn thủ biên cương, hoặc làm người bạo phát về đầu tư kinh doanh, chủ người thành danh trong một sớm một chiều chiều, bạo phát bạo bại, kết cục đa phần không tốt đẹp, tuy phú quý nhưng cũng chết yểu. Hoặc là liệt sĩ hi sinh vì nghĩa. Lại hội hung sát thì coi thường pháp luật, đâm đầu vào chỗ hiểm nguy, tất chết dưới đao kiếm.

Thất Sát tại Sửu Mùi, Liêm Trinh đồng cung
“Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai”, tất là số phải ra ngoài, thích hợp võ chức hay kinh doanh.
Hai sao trên đồng cung tọa Mệnh, chủ người dũng cảm, dám mạo hiểm, làm việc dễ một mình một đường, cả đời cũng có nhiều thăng trầm và khúc triết. Chịu gian khổ, vất vả, đặc biệt là khi còn trẻ.
“Liêm Trinh Thất Sát, phản vi tích phú chi nhân”. Giỏi quản lý tiền bạc, người sinh năm Giáp tọa quý hướng quý, Mệnh cung Liêm Trinh Hóa Lộc, hội Phá Quân Hóa Quyền và Vũ Khúc Hóa Khoa, lại hội Tả Hữu Xương Khúc, không quý tất đại phú, là cách “Liêm Trinh thanh bạch”; người sinh năm Canh tọa quý hướng quý, Vũ Khúc Hóa Quyền, hội cát tinh cũng có thể phú quý.
Người sinh năm Bính Liêm Trinh Hóa Kỵ, hội sát tinh, tất có tai họa thương tích chảy máu, có thể gặp tai họa bất ngờ, là cách “Lộ thượng mai thi”.
Liêm Sát Sửu Mùi, sẽ hoạnh phát, hung tinh đồng cung hay hội chiếu không có cát tinh thì chủ bần tiện, tuy hoạnh phát một thời nhưng tất đại bại.

Thất Sát tại Dần Thân
Thất Sát nhập miếu, đối cung là Tử Vi Thiên Phủ, ở Dần là cách “Thất Sát ngưỡng đẩu”, ở Thân là cách “Thất Sát triều đẩu”, nhiều cát tinh thì hợp cách, hội sát tinh thì không hợp. Ở cách này Thất Sát ở vị trí thuận lợi nhất, nhập miếu được Tử Phủ hội chiếu, tuyệt đối không phải người tầm giữa giữa, mà chủ người tước lộc vinh xương, không phú tất quý. Bẩm sinh có năng lực quản lý cực tốt, có mưu lược. Hội cát tinh, cũng phải trải qua gian khổ. Hội nhiều cát tinh, Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, tất là đại tướng, thiện chiến, uy chấn thiên hạ, hoặc là trụ cột quốc gia, lưu danh muôn đời, thứ đến cũng có thể là nhân vật quan trọng trong giới chính trị, chủ quản hành chính, phú ông, hoặc có quyền lớn trong quân đội, cục cảnh sát…
Người sinh năm Giáp Đinh Kỷ, tài quan đều tốt, là người phú quý. Người sinh năm Bính Mậu trung bình. Người sinh năm Canh Nhâm và người sinh năm Ngọ Tuất, không tốt, phú quý không bền. Đà la đồng cung, tàn tật. Hội Tứ Sát, chết trận, chết thảm. Không Kiếp xung chiếu, chủ sớm tàn.

Thất Sát tại Mão Dậu, Vũ Khúc đồng cung
Thiếu niên không thuận lợi, thích hợp làm kinh doanh. Là người có dã tâm lớn, dục vọng không giới hạn. Làm việc rõ ràng, có mưu lược, hiệu quả cao, chỉ có điều độc đoán chuyên quyền, vì tiền bạc mà sẵn sàng thẳng tiến, sẵn sàng chiến đấu đến cùng. Tính tình thích phân tranh, tư tưởng may mắn cực mạnh, đa phần đều thích mạo hiểm đầu cơ. cuộc sống cuối cùng thăng trầm bất ổn, cũng nhiều hình thương, hội cát tinh cũng tất phải trải qua gian khó.

Người sinh năm Ất Tân Lộc Tồn ở Mệnh hoặc ở cung Di, phúc dày, tài quan song mỹ. Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, phú quý. Người sinh năm Giáp dù có lúc hoạnh phát nhưng vinh hoa không bền. Vì Tài Bạch có Liêm Trinh, nên một đời cũng có phá sản.
Tứ Sát đồng cung, tính tình hung bạo, tất có họa máu chảy, tàn tật bị thương hoặc có họa sát Thân, có thể giảm thọ.

Kình Dương đồng cung, vì tiền mà động dao kiếm,. Hỏa Tinh đồng cung, vì tiền mà bị cướp.
Vũ Sát Mão Dậu thích hợp làm quân cảnh, địa ốc, đầu cơ kinh doanh, mua bán chứng khoán, công việc kĩ thuật, kiến trúc hay các ngành có tính chất mạo hiểm khác.

Nữ mệnh tính cương, có chí khí nam nhi, trong nhà bắt nạt chồng, hôn nhân có nhiều trắc trở.

Thất Sát tại Thìn Tuất
Thất Sát miếu, đối cung là Liêm Trinh Thiên Phủ. Chủ người dục vọng không đáy, tâm trí mạnh mẽ sâu xa, giàu tưởng tượng, tính trầm ngâm, tính thống trị cao, có phong thái đại tướng. Thất Sát nhập đất thiên la, dù có cát tinh củng chiếu, cũng phải chịu khó khăn gian khổ, trong khó khăn mà thành đại nghiệp. Hội cát tinh, tài quan song mỹ. Có mưu lược. Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, nắm quyền sinh sát, tất là tướng soái. Lập Mệnh tại Tuất, người sinh năm Giáp đối cung là Liêm Trinh Hóa Lộc, cung Quan Lộc Lộc Tồn và Phá Quân Hóa Quyền, hội Tả Hữu Xương Khúc, binh quyền ngàn dặm, càn quét thiên hạ. Lập Mệnh ở Thìn, người sinh năm Quý song lộc triều viên, Khôi Việt giáp Mệnh, đại phú quý.

Sao này ở Mệnh, không có cát tinh cát hóa, khó tránh chết yểu, đa phần chủ hung vong. Xương Khúc đồng hội, chính chiếu đối cung Liêm Trinh, dù phú quý cũng phải đề phòng chết yểu, nếu hành thiện có thể tránh được.

Thất Sát tại Tỵ Hợi, Tử Vi đồng cung
Tử Vi tại Tỵ Hợi, Thất Sát đồng cung, cá tính kiên cường, cố chấp, có năng lực kinh doanh, quản lý ưu tú, khả năng nhẫn nại tốt, trí sự nghiệp lớn mạnh, luôn muốn phát triển lên. Hay được sự giúp đỡ của quý nhân, bước chân chậm rãi lên mây.
Tử Vi Thất Sát được Lộc Tồn đồng cung tức hóa thành quyền, lại là điều tốt, gặp Xương Khúc Lộc Tồn, luận là cự phú đại quý. Cung Tài Bạch Vũ Khúc Tham Lang được Nhật Nguyệt giáp, thích hợp làm chủ, gia thêm Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh ở cung Tài Bạch, hoạnh phát tiền tài.
Hội không vong, dựa bóng hư danh, sau khi chết có chút danh tiếng. Hội Tứ Sát, không quý, cô độc, hình thương. Hỏa Linh tại cung Mệnh, gian trá, tuy phú quý cũng là kẻ tiểu nhân nịnh họt, bị mọi người xa lánh. Đà La tại cung Mệnh, khó tránh cảnh tù lao.

Người sinh năm Bính Mậu Nhâm, Tử Vi Thất Sát Hóa là Quyền, phúc dày, có thể tay trắng làm nên cơ nghiệp, kinh doanh đại phát, phú quý. Xương Khúc hội, quý hiển. Người sinh năm còn lại phú quý đều ít.
Nữ mệnh, chú tâm đến sự nghiệp, sẽ gả cho người có tiền.

Cách cục Thất Sát triều đẩu

Sao Thất sát trấn mệnh, nhập cung Tý, Ngọ, Dần, Thân lại gặp Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi Việt gia hội là hợp cách cục này. Sao Thất Sát nhập miếu tại cung Thân, Vượng tại cung Tý, Ngọ. Nên Thất Sát trấn mệnh tại cung Thân, Ngọ là ” Triều đẩu” (Chầu về Bắc Đẩu), Trấn mệnh tại cung Dần, Tý là ” Ngưỡng đẩu” ( Ngửa trông Bắc Đẩu), cách cục này có mang sát khí, nên bản thân phát đạt ắt sẽ khiến một số người khác gặp tai họa, hoặc cũng có thể khiến nhiều người phải chết vì mình. Nếu lá số gặp cách cục này, chủ về theo nghiệp võ sẽ hiển quý, thống lĩnh đông đảo quân đội, nếu không cũng là người sáng lập công ty, là nhân tài kinh doanh, chắc chắn sẽ giàu to. Nếu gặp cát tinh gia hội, nhưng lại gặp hung tinh là phá cách, chủ về nhiều thăng trầm, lên voi xuống chó, chóng phất, chòng bại cho dù phát tài cũng không thể duy trì được lâu bền, hơn nữa phần nhiều đều gặp kết cục xấu. Nếu gặp cát tinh tai họa sẽ được tiêu giảm bớt mà trở thành cách cục bình thườn. Nếu không gặp cát tinh, lại bị hung tinh nằm cùng cung hoặc gia hội, sẽ trở thành mệnh xấu, chủ về hung ác, bạo tàn, tàn tật, bôn ba, phạm tội, tù ngục, tuổi thọ không được cao.

Ưu điểm: Cuộc đời nhiều biến động, tuổi trẻ gian nan, nhưng có mưu lược, có tài năng, kiên trì nhẫn nại, có năng lực sáng tạo, hoạch định, phân tích, tư duy, dũng cảm, quyết đoán, khắc phục được khó khăn, để đạt được thành công, chức tước vinh hoa.
Khuyết điểm: Là cách cục biến hóa từ Sát Phá Tham, dê mắc phải thị phi, khó tránh khỏi bôn ba vất vả.

Ca Quyết:
Cách danh triều đẩu quý vô nghi
Nhập miếu tu giao phúc lộc tề
Liệt liệt trùng trùng danh hiển diệu
Bình sinh an ổn hảo căn cơ
Thất sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi Việt, Tả Hữu, Văn Xương hội
Khoa lộc danh cao thực vạn chung

Nghĩa là:
Cách cục triều đẩu là đáng quý
Nhập miếu phúc lộc được vẹn hay
Rực rỡ uy danh thân hiển hách
Một đời yên ổn vững vàng thay
Thất sát tại Dần, Thân, Tý Ngọ
Khắp nơi quy phục kẻ anh hùng
Gặp Khôi, Việt, Tả, Hữu, Xương Khúc
Công dah hiển đạt lộc muôn trùng

Kinh văn có viết: ” Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh hoa”. ” Thất Sát tại Dần Thân, Tý Ngọ một đời ăn lộc cực vinh hoa”, “Triều đẩu, Ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa”, ” Thất Sát trấn mệnh, miếu vượng có mưu lược, gặp Tử Vi lại gặp các cát tinh ắt thành đại tướng”, ” Thất Sát trấn mệnh được Tả , Hữu, Xương, Khúc hội chiếu có được quyền sinh sát, phú quý siêu phàm”, ” Thất Sát nhập cung thân mệnh, gặp cát tinh cũng phải nếm trải gian nan”.

PHỤ LUẬN
Tinh tính: dương kim, chúc hỏa, hỏa hóa chi kim. Cô khắc hình sát chi túc, chủ thành bại, ti sinh tử quyền bính. Đại biểu uy nghiêm, khắc nghiệt, xung động, kịch liệt, mạo hiểm, biến động, tai nạn. Thiên Lương, Thất Sát chủ quản kỷ luật hình pháp chi quan, duy Thiên Lương chủ văn hậu, Thất Sát chủ võ tiền, tại quân trung vi hiến binh, tại hành chính xí nghiệp là chủ quản. Tại quan lộc cung đắc địa, khả hóa họa vi tường. Hạn hành phùng Triệt không, Địa Kiếp, Thiên Khôi (Thiên Không?) đẳng hung tinh tụ hội thì, thì có khả năng bị sát hại hoặc có tai nạn lớn. Hạn niên bất hỉ hành Cơ, Cự đích cung độ.
Thất Sát Phá Quân vi tướng tinh, Thất Sát chủ soái, lao tâm, gian tân, độc đương nhất diện, độc lập xử sự; Phá Quân vi tiên phong, lao lực, đa ba động. Thất Sát, Phá Quân giai chủ cô độc hình khắc, phá phôi lực đại. Thất Sát giác hữu mưu, Phá Quân bất cố hậu quả. Thất Sát giác bình tĩnh trầm ổn, Phá Quân giác hung bạo lỗ mãng. Thất Sát trong phá phôi thị kiến thiết tính, Phá Quân đích phá phôi thị vi phá phôi tính. Thất Sát cô độc do hoàn cảnh, Phá Quân đích cô độc tự kỷ tạo thành. Tử Vi đồng cung khả chế ước tha môn đích ác tính, cụ hữu kiến thiết tính; Tử Vi tại đối cung tắc chế ác lực lượng giác nhược, phùng hung cự hữu phá phôi tính.

Sát Phá Tham, Thất sát bày mưu tính kế, Tham Lang ra lệnh, Phá Quân xông trận. Tam tinh chủ khai sáng hòa biến hóa. Thất Sát đích khai sáng truy cầu sự nghiệp dục vọng; Thất Sát biến hóa đột nhiên, làm người trở không kịp, mà cải biến thường không hẳn liên quan tới nghiệp cũ, thường bắt đầu lại từ đầu, như cải hành, cải nghiệp.
Thất Sát tinh vi quá cương quá liệt chi tinh, kỳ hảo phôi tựu khán kỳ cương khắc đích trình độ, quá cương tắc dịch chiết, nghi âm nhu chi tinh chế hóa.

Thất Sát tại dần thân tý ngọ cung thủ mệnh, gia hội tả hữu xương khúc khôi việt quyền lộc đẳng cát tinh, đa đắc quý nhân, xã hội danh lưu đề huề, danh cao quý hiển. Nhưng tân lao thị phai tai thương bất miễn. Dần thân cung Giáp, Quý sinh nhân thượng cách, Canh sinh giác thứ; Tý cung dĩ Quý Kỷ sinh nhân thượng cạch, Giáp sinh nhân diệc cát; Ngọ cung Giáp sinh nhân thượng cách; Kỷ sinh nhân diệc cát, Đinh sinh nhân chủ phú nhi bất quý. Gia sát tắc phá cách, phản chủ hung họa(?).

Thất Sát tý ngọ, vô sát chủ hữu dũng hưu mưu, kiên cường cương nghị, hựu ngận cường đích thông ngự lĩnh đạo năng lực, khả độc đáng nhất diện, nhất sinh đa kỳ ngộ, định nhiên phú quý, nhưng bất miễn cô độc hình khắc cùng trải qua gian khổ. Đắc lộc, nhất là Tham Lang hóa Lộc tắc bất hội cô khắc nhi thành tựu phi phàm. Gia lục cát tinh, giảm thiểu cô khắc cùng gian nan, hữu uy quyền, khả chưởng đại quyền, nhưng vẫn phải trải qua gian nan. Gia hội tả hữu khôi việt, khả vi đại tướng; gia hội xương khúc, văn võ song toàn, phú quý. Gia hội sát kỵ, nhất là Vũ Khúc hóa Kỵ, càng cô khắc, đa ba chiết, thành bại khởi phục đa đoan, tai bệnh hình thương; Kình Dương đồng cung cô khắc tối trọng; sát hình kỵ tụ, nội tâm lo âu, trắc trở sau không phục hồi được, nếu không tàn tật, tất sẽ hung họa bên ngoài thương vong; nữ mệnh đa cảm tình ba chiết, hình phu khắc tử. Tý cung tam phương hội sát, trung vãn niên khốn đốn, thả phòng đầu hòa nịch thủy chi tai, bất ngi giang hồ hải tác nghiệp.

Thất Sát triều đẩu tại Dần với Thân, ngưỡng đẩu tại Tý với Ngọ có khác nhau, tùy theo vị trí miếu hãm của Thái Dương, Thái Âm mà định. Ví dụ tại Thân, Nhật Nguyệt lạc hãm, cuộc sống ắt bôn ba vất vả hơn tại Dần khi Nhật Nguyệt vượng địa. Tử Ngọ giả trọng sáng tạo, trọng phu thê, Dần Thân trọng kiên thủ, trọng viễn bá. Tử Ngọ đối vu Dần Thân, bỉ giác trọng thị sáng tạo phát minh. Nhi Dần Thân triều đẩu cách tương sáng tạo phát minh nã lai dụng.

Thất Sát tinh tính cường liệt, tất chủ quyền uy, trí dũng song toàn, thâm mưu viễn lự, phàm sự giai hữu chủ kiến, quyết bất manh tòng. Nhân thử, hữu ngận cường đích độc lập tính, khai sáng tính hòa quản lý năng lực, sự nghiệp tâm cực cường. Thất Sát tính cách cương cường, cảnh trực, bất uy gian khổ hòa ma nan, hữu kiên định đích tín tâm hòa nghị lực, sự tình nhất đán quyết định, tiện bất tài hồi đầu, tức sử kết quả thị thất bại đích (một khi đã quyết định sẽ không quay đầu cho dù kết quả thất bại). Đồng thì, Thất Sát cảm vu tiếp thụ các chủng các dạng đích thiêu chiến, cụ hữu tranh tranh thiết cốt, bất hội khí chủ cầu vinh, thị nhất cá điển hình đích ngạnh hán tử (không bán chủ cầu vinh, điển hình hán tử).
Cổ thư bình Thất Sát thị ác diệu, thị nhân vi tha đích tính chất quá vu cương cường, sở dĩ bất hợp quần, hữu thì thậm chí hội đắc tội nhân, lạc lạc quả hợp (tự nhiên khó hòa hợp), nhân thử thân cận đích bằng hữu ngận thiểu; đồng thì, Thất Sát hựu thị Tử Vi thân biên đích chủ soái, hữu thì hự nan miễn hữu “Tướng tại ngoại, quên mệnh hữu sở bất thụ” đích trạng huống ngộ sự nhu yếu tự kỷ quyết định, biến đắc độc đoạn độc hành, bất thính thủ tha nhân đích ý kiến; do vu Thất Sát thị thâm mưu viễn lự đích nhân, sở dĩ tại tư khảo vấn đề thì cố lự thậm đa, quyết định vấn đề thì nghi lự trọng trọng, hữu thì thậm chí hỉ nộ vô thường.

Thất Sát hỉ chư cát, năng cú đắc đáo dân chúng đích ủng hộ dữ chi viên, tại quốc vi đại tướng chi tài, tại thương vi lĩnh tụ nhân vật. Thất Sát tối hỉ dữ Tử Vi đồng độ, dữ Tử Vi, Thiên Phủ đối củng, chủ hữu quyền lực, hữu uy vọng; nhân vi văn vũ thù đồ, sở dĩ bất hỉ Văn Xương, Văn Khúc, Long Trì, Phượng Các đẳng diệu, chủ lưu ly phiêu đãng, cư vô định sở; như quả Thất Sát dữ Tử Vi hoặc Liêm Trinh đồng cung thì Văn Xương, Văn Khúc tắc năng gia kỳ ưu thế. Thất Sát hỉ kiến Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn, khải dĩ trừ khứ kỳ sát khí, hóa giải kỳ bạo lệ; bất hỉ kiến Tử Vi Hóa Quyền, nhân vi quyền lực chi khí thái trọng, phản nhi tương khắc, nhân tế quan hệ bất hảo; dã bất hỉ hội Hóa Kị, tước nhược Thất Sát đích tiến thủ tâm hòa tăng gia kỳ lao khổ.
Nhất bàn lai thuyết, Thất Sát tại nhập miếu thì bất phạ sát tinh, tức sử ngộ kiến sát tinh, bính tận toàn lực, dã khả tại lịch tận gian tân chi hậu, hữu sở thành tựu, đãn thị Thất Sát nhưng bất hỉ Kình Dương, Đà La, vưu kỳ thị tại “Trường Sinh” chi địa, tăng gia kỳ tinh tính trung đích “Cương” tính nhi canh vi bạo ngược, hành sự phách đạo, cương phức tự dụng, đương Thất Sát lạc hãm thì, tắc hoặc nhân tai họa tử vong, hoặc nhân tật bệnh tử vong, hoặc thị yêu chiết.

Gia Tử Vi, hữu trùng kính hữu quý khí, phách khí, đương nhiên khí vũ bất phàm, ngưỡng triều đẩu diệc như thị, phùng Tả Hữu, hữu nhân tương trợ, khả ổn định Thất Sát đích biểu hiện, phùng Khôi Việt, trường thượng duyến bất thác, phạ thị Thất Sát bất kiến đắc mãi đan, phùng Xương Khúc, khí chất dữ tài hoa kiêm cụ, bất quá nại tính tựu khả năng bất thậm lý tưởng, ngộ Hỏa Linh, trùng lực thập túc, bất quá tỳ khí khủng phạ bất thị nhất bàn nhiên năng tiêu thụ đích liễu, dã dịch chiêm tiền vong cố hậu, ngộ Lộc Tồn bất thác, khả dĩ cẩn thận nhất ta, nhân duyên dã giác giai, đã na trùng kính tương đối tựu tiểu liễu ta. Ngộ Kình, cương nghị quá nhân, ngộ Đà, tự ngã mâu thuẫn, ngộ Không Kiếp, phạ phấn đa sự bạch kiền liễu, hoặc bị mệnh vận đích chuyển luân, cao cao cư khởi, trọng trọng đích lạc hạ, nhược phùng thử diệu, khuyên chi tương nhân sinh đích hư danh hư lộc khán đạm, bất yếu cấp câp vu danh lợi truy cầu hoặc hứa giác hảo, nhược Thất Sát bị Lộc Mã giao trì, na yêu thị bất thị chủ lệnh Thất Sát canh vi hoạt bát, hoạt dược. Canh toàn lực dĩ phó địa đơn đả độc tấu. Đại thành đắc canh khoái, đại bại đắc dã khoái.
Mệnh Thất Sát tất Quan Lộc cung có Phá Quân, chủ một đời sự nghiệp không thuận, thời trẻ thường xuyên thay đổi công việc, sự nghiệp phát triển không ổn định, trung niên trở về sau, sự nghiệp có thể gây dựng được. Một đời không phù hợp với công việc mang tính đầu cơ mạo hiểm, dễ dàng rủi ro, nếu như kinh thương, cũng cần cẩn thận, tránh cùng người phát sinh tranh chấp liên quan tới tiền bạc.

Thế gian vạn vật, cương tắc dịch tổn, cho nên đối với Thất Sát, cổ thư đều nói là dễ dàng tàn tật chế non, cho nên xin khuyên tất cả bằng hữu mệnh Thất Sát cần chú ý cẩn thận nữa, không bao giờ là thừa cả, khi đắc ý cần suy ngẫm lại bản thân, có thể tránh được họa nạn. Thất Sát mười phần xung lực, cuộc đời cao trào phập phồng, có cơ hội hoành phát, nhưng cần phải thật chú ý hoành phá, hơn nữa, Thất Sát tọa mệnh có tràn đầy nhiệt tâm giúp đỡ người, điểm tốt này cần phải phát huy hơn nữa.

Thất Sát nhập mệnh, nhãn thần hữu lực, bất nộ tự uy, năng chưởng quyền. Yếu phán đoạn Thất Sát nhập mệnh năng phủ thành vi lương hảo cách cục, hữu nhất giản đan đích yếu quyết, tự thị quan sát kỳ nhãn thần. Thất Sát tinh thành cách thì chủ nhân nhãn Đới uy nghiêm, thần tình ổn trọng; nhi cách cục bát giai thì, đa nhãn đại vô thần, hoặc nhãn tương bất giai. Luận mệnh chi thì, khả do hình tướng chi đặc tính phối hợp lai khán, bang trợ phân biệt cách cục cao thấp.

Thất Sát nhập mệnh, tính tình quật cường, ngoại biểu quả quyết, đãn khẩu ngạnh tâm nhuyễn. Giá nhất điểm dữ Thiên Lương nhập mệnh bất đồng, Thiên Lương sở kiên trì đích thị tự kỷ đích nguyên tắc, bất luận nhâm hà hoàn cảnh, đô bất dịch chuyển biến; đãn Thất Sát sở kiên trì khước thị tự kỷ đích quyền uy, chích yếu biệt nhân thuận tòng tự kỷ đích ý kiến, hoặc dĩ ân nghĩa tương kết, tiện bất tái cố chấp kỷ kiến.

Đại phàm Thất Sát nhập mệnh, hữu nhị điểm tất nhiên đích ứng nghiệm: nhất, tất tu ly khai xuất sinh địa, phương năng hữu giác giai đích phát triển; nhị, nhất sinh trung tại sự nghiệp thượng tất hữu nhất thứ cực đại đích ba chiết biến hóa. Cho nên, tối kỵ đầu cơ thủ xảo. Một phần, Thất Sát nhập mệnh, đa hữu ba chiết.
Nhất bàn nhi ngôn, Thất Sát chủ vũ bất chủ văn, duy Tử Sát đồng cung ngộ Xương Khúc hội chiếu thì, khước năng văn vũ song toàn, cố khả hướng văn giáo giới phát triển. Thất Sát tối hỉ kiến Lộc Tồn cùng Hóa Lộc, năng ổn định cách cục, Tả Hữu Khôi Việt giai năng hữu trợ vu thành cách. Dương Đà Hỏa Linh tứ sát diệu, đối đại bộ phân tinh hệ giai hữu nhất định đích phá phôi lực, nhi Thất Sát bản thân tức Đới hữu sát khí, nhất ngộ tứ sát tịnh chiếu, cách cục tức lạc hạ cách. Bất luận tại mệnh hay hạn, ngộ sát tắc bất cát, hóa giải bằng cách tòng sự tiêu hao thể lực đích công tác, hoặc kinh thường yếu tiếp xúc kim chuc khí cụ đích công tác, dĩ cầu hóa giải Thất Sát đích sát khí, nhược tòng sự văn chức công tác, yêu cầu mỗi ngày bảo trì nhất định đích vận động lượng, nếu không tắc thân thể đa hữu bệnh tai.

Thất Sát tý ngọ, dần thân, thìn tuất hợp luận: Phi đẳng nhàn chi bối, hỉ trầm mặc độc xử, cô độc nhi lý trí. Tại tý, dần cung lập mệnh là “Thất Sát ngưỡng đẩu cách”, chủ thành tựu đại, đa đắc vu quý nhân chi đề huề, duy bất y tổ nghiệp. Đãn Thất Sát tại tý cung giác soa, hình thương trọng, tại dần, ngọ, thân cung sảo hảo. Dần cung kỹ thuật nhân giác đa; tại thìn tuất, hữu tòng sự doanh tạo sự nghiệp giả. Thất Sát tại ngọ, thân lập mệnh hội cát giả, vị chi “Thất Sát triều đẩu cách”, chủ chưởng quyền, nhất sinh tân lao, thủ tài, năng lực suy xét rất mạnh, có thiết kế, phân tích năng lực, sáng tạo độc đáo, độc đương nhất diện, thành tựu bất phàm, tòng sự kỹ thuật tính đích sinh sản công tác. Thất Sát tại ngọ, tố sự giảng nguyên tắc, hữu trí năng, thâm mưu viễn lự, tòng sự kỹ thuật hoặc trọng tân tổ hợp đích công tác. Gia hội Xương Khúc, vi lão bản, chủ quản giai tằng, tòng sự sản sinh sự nghiệp, hội Xương Khúc danh thanh hảo, hội Tả Hữu, năng thống ngự, Xương Khúc Tả Hữu hội toàn, danh vọng địa vị câu giai.
Thất Sát chủ thành bại, nhược thị Thất Sát ngộ Tả Hữu Lộc Tồn, chích năng thuyết lập vu bất bại, đãn thị yếu đại thành, khủng phạ đắc thì gian luy tích, phi nhất xúc khả cập. Thất Sát chân chính yếu đại phát, đắc khán tam phương Hóa Lộc hòa sát tinh, vưu kỳ tam phương hình thành Hỏa Tham Hóa Lộc lai chiếu hội. Nhược thị Thất Sát hội cát thậm đa bất hội sát tinh, vưu kỳ ngộ đáo Tả Hữu hội nhân vi quá độ ổn định, dữ Thất Sát tính chất tương bội, trở thành con người “nghĩ lại mà làm sau”, làm đâu chắc đó, nên tỷ lệ thất bại giảm mạnh, nhưng từ đó nội tâm cũng dễ mâu thuẫn, sinh trầm ngâm phúc bất vinh.
Vóc dáng người trung bình, tại Ngọ cung khá cao. Nam mệnh ngoại biểu ổn trọng, bất nộ nhi uy, thông minh năng kiền, chính trực vô tư, hữu chính nghĩa cảm, tâm trực khẩu khoái, cụ độc lập chi khí khái, cảm mạo hiểm, hữu nghị lực.

Hội Tử Vi, Lộc Tồn khả đắc bạo phát chi tài, chưởng sinh sát chi quyền, vi hùng tâm vạn trượng đích xí nghiệp gia, vi công thương giới lĩnh tụ, chức vụ giác cao.

Tòng sự hành nghiệp, quân cảnh giới, tư pháp, quản chế công tác (quản lý, kiểm soát), vận động viên, kiến trúc nghiệp, trọng công nghiệp, công trình kiến tạo nghiệp, ngoại khoa y sinh, đồ tể nghiệp, tang táng nghiệp, nông tràng, đánh chữ, thủ công nghệ, điêu khắc, địa lý, phong thủy sư.

(Nguồn: theo http://kiennd.com/)