Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Tứ Hóa: Lộc Quyền Khoa Kỵ


Tứ Hóa


Hóa Lộc
Hóa Lộc thuộc Thổ, là thần phúc đức, hỉ gặp Lộc Tồn. Nhập miếu ở Dần Thân, tác dụng tốt đẹp rất lớn, lạc hãm ở cung Tý Ngọ Mão Dậu, tác dụng tốt đẹp khá nhỏ. Nhập Mệnh, là người hiền hòa, giỏi xã giao, nhân duyên tốt, tính tình hào phóng, vui vẻ hài hước, ở ngoài được người khác yêu mến, cả đời hưởng phúc. Hỉ nhập Mệnh, Thân, Quan, Tài, Di cung, chủ phú quý, thứ đến là nhập cung Phúc Đức, Điền Trạch.

Bất kể chính tinh nào hóa Lộc, tác dụng thuận lợi tăng gấp nhiều lần, đặc biệt hỉ Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Phá Quân Hóa Lộc. Hóa Lộc thủ Mệnh Thân và quan lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất làm quan to, kinh doanh cũng có thể trở thành phú ông. 
Hóa Lộc thủ Thân Mệnh, Quan Lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất là quan lớn, có thể kiếm được nhiều tiền, một đời hay gặp may mắn ngoài dự kiến và sự giúp đỡ của quý nhân.

Hóa Lộc và Lộc Tồn giáp Mệnh cung, là cách “Song Lộc giáp Mệnh”, chủ phú quý.
Mệnh có Hóa Lộc, mà cung ám hợp của Mệnh có Lộc Tồn, “Minh Lộc ám Lộc”, đại cát, là điềm càng tốt đẹp hơn. Mệnh cung có Lộc Tồn, mà cung ám hợp có Hóa Lộc cũng vậy.

Hóa Lộc là tư sản lưu động, mà Lộc Tồn là tư sản cố định, Hóa Lộc hỉ đồng cung hay hội chiếu với Lộc Tồn, Thiên Mã, là cách “Lộc Mã giao trì”, “Song Lộc triều viên”, cực kì tốt đẹp, đại phú hoặc đại quý.
Hóa Lộc ở cung Tý Ngọ cư Thiên Di, chủ người văn chương cái thế, là cách “Đối diện triều thiên”, Thái Dương ở Tý Ngọ Hóa Lộc là hợp cách.
Hóa Lộc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, không chủ tiền tài, có phát cũng chỉ hư hoa hào nhoáng, vì tiền bạc mà vất vả. Hoặc Hóa Lộc hãm ở Tý Ngọ Mão Dậu kiến sát tinh, cũng bất lợi. Sách viết: “Phát bất chủ tài, lộc chủ triền vu nhược địa”.
Bản cung và tam hợp cung có Hóa Lộc, nhưng bị Hóa Kỵ xung phá, là cách “Lộc phùng xung phá”, tốt cũng biến thành xấu, tất gặp tổn thất ngoài dự kiến, trèo cao té đau.
Hóa Lộc tối kỵ hung tinh xung phá, như đồng cung hội chiếu với Dương Đà Hỏa Linh, cách cục mất đi cái dẹp, tốt mã dẻ cùi, cũng không phú quý, hoặc vì phú quý mà rước hung họa.

Hóa Quyền
Hóa Quyền thuộc Mộc, là thần nắm quyền sinh sát, nhập miếu ở cung Sửu, không có hãm địa. Nhập Mệnh cung, chủ người tính tình ngoan cố, coi trọng quy tắc đạo đức, hành sự ổn trọng, tính nguyên tắc cao, có năng lực thống trị lãnh đạo rất tốt, kiên cường bất khuất, chuyện gì cũng không dễ dàng chấp nhận thất bại, tính tình kì quái, đi đến đâu cũng được mọi người kính trọng khâm phục, dễ được người khác tán thưởng. Hỉ nhập Mệnh Thân cung, Di cung, Quan Lộc, Tài Bạch cung, chủ có quyền thế. Hỉ hội Vũ Khúc, Cự Môn, tất làm đại sự. Sao này ở Mệnh, chuyên chủ quyền thế. 
Nữ mệnh Mệnh có Hóa Quyền, trong ngoài vừa ý, hội cát tinh có thể là bậc quý phu nhân.
Hóa Quyền thủ Thân Mệnh, Khoa Lộc tương phùng, là quan tướng, đại phú đại quý.
Hóa Quyền nhập cung Mệnh, cung Quan Lộc và có Cự Môn hay Vũ Khúc hội chiếu, tất nắm đại quyền, hoặc thống lĩnh trăm ngàn binh lính, võ chức quý hiển.

Hóa Quyền nhập Mệnh Thân, đồng cung với Hóa Khoa, tất văn chương đứng đầu, mọi người đều khâm phục kính nể, có danh tiếng trong giới văn nghệ, học thuật.
Hóa Quyền và Hóa Khoa giáp Mệnh Thân cung, chủ quý.
Hóa Quyền đồng cung hay hội chiếu với Hóa Lộc, tài quan song mỹ, cát tinh nhiều thì luận như trên, nếu hung tinh hội nhiều thì không luận là tốt, chủ hư danh hư lợi, hào nhoáng mà không thực.
Hóa Quyền và Hóa Lộc thủ cung Tài Bạch, cung Phúc Đức, xuất thế vinh hoa.
Hóa Quyền, Hóa Lộc cư cung Nô Bộc, tuy có quan quý cũng vất vả bôn ba.
Hóa Quyền hội Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Đại Hao Thiên Sứ, dễ nghe lời xằng bậy, tất có quan tai giáng chức, hoặc sự nghiệp gặp tổn thất.

Hóa Khoa
Hóa Khoa thuộc Thủy, đứng đầu trong thi cử, là thần về văn mặc, hỉ hội Khôi Việt. Nhập miếu vượng ở Sữu Ngọ Thân, hãm ở đất Tuần Không, Triệt Không, Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Nhật Nguyệt hãm địa. Nhập Mệnh Thân cung, chủ người thông minh ham học, khẩu tài lưu loát, có tài hoa về phương diện ngôn ngữ, văn chương, học tập ưu tú, được đánh giá cao, một đời dễ nổi tiếng. Thủ Thân Mệnh, Quyền Lộc tương phùng, thông minh. Nếu gặp ác tinh, cũng là tú tài văn chương, có thể là giáo viên. Hóa Khoa hỉ nhập Mệnh, Thân, Di cung. Cư Tài Bạch cung, Quan Lộc cung cũng tốt. 
Nữ mệnh cát tinh củng chiếu, có thể là quý phu nhân, dù Tứ Sát xung phá, cũng chủ phú quý, không có sát tinh hội chiếu thì dịu dàng thanh tú.
Hóa Khoa thủ Mệnh Thân, đồng cung hội chiếu với Hóa Quyền Hóa Lộc, là số đại quý, quan cao vinh hiển.

Tam phương tứ chính Mệnh nếu được Khoa Quyền Lộc hội chiếu, là cách “Khoa Quyền Lộc tam kì”, nếu chính tinh miếu vượng, là quý cách uy chấn thiên hạ.

Hóa Khoa Hóa Quyền giáp Mệnh, là quý cách.
Khoa Quyền đối củng, là người bỗng nhiên nổi tiếng, lưu tên bảng vàng, chủ quý.
Khoa Quyền Lộc Mệnh phùng hội cát tinh, quyền uy của bậc vương tướng chấn áp mọi người. Là cách có cả danh lẫn lộc.

Hóa Khoa thủ Mệnh, ám hợp với Hóa Lộc ở cung lục hợp, là cách “Khoa Minh Ám Lộc”, chủ quý, có thể là quan chức cấp tỉnh.
Hóa Khoa ở Mệnh, Hóa Quyền chiếu đến, vận thi cử rất tốt, đỗ hạng đầu.
Khoa hãm bởi hung thần (hãm do Triệt Không, Kiếp Không, Dương Đà, Nhật Nguyệt hãm), có tư chất nhưng không thành công, hào nhoáng mà không thực, khó có thể phát huy tài năng, cũng không giàu có.
Hóa Khoa đồng thủ Mệnh với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tam phương tứ chính hội một trong Tứ Sát Dương, Đà, Hỏa, Linh thì có tai họa ngục tù.
Hóa Kỵ
Hóa Kỵ thuộc Thủy, là sao kế đô, là đa quản chi thần, cũng là một hung tinh, nhập miếu ở Tý Sửu, lạc hãm ở Dần Ngọ Tuất Tỵ Hợi, có thể căn cứ vào sự khác nhau giữa chính tinh trong cung mà có tác dụng khác biệt. Hóa Kỵ nhập mệnh, là người thích suy nghĩ vào ngõ cụt, có xu hướng ngoan cố, cá tính mạnh, thích đố kỵ, hay đa nghi, thích quản chuyện không đâu, quan hệ xã hội không tốt, thường có xung đột với người khác, làm việc khi sắp thành thì lại thất bại.

Hóa Kỵ là sao bất hạnh, thường dẫn đến thất bại, hay gặp các tai họa như không vừa ý toại lòng, thất tình, thất nghiệp, phá sản, xung đột, tranh đấu, bệnh tật, thương tích, làm hỏng, thủ Thân Mệnh, một đời không thuận, hay rước thị phi. Trừ một số trường hợp nhỏ, nhập 12 hai cung thì đâu đâu cũng là hoa, có ý nghĩa phá hoại, duy gặp cát tinh nhập miếu thì có thể giảm bớt cái hung, nếu hội chiếu với hung tinh mà không gặp cát tinh thì không lường trước được tai họa. 
Nữ mệnh Hóa Kỵ nhập Mệnh Thân cung, lắm mồm, tính tình lanh lợi. Không hội cát tinh thì một đời vật chất khó khăn, chủ nghèo hèn. Hội hung tinh Hóa Kỵ họa nặng, nhiều cát tinh hội thì tai họa khá nhẹ.
Hóa Kỵ tại Mệnh Thân, di, độ hung cực lớn, chủ một đời không thuận, hay gặp trắc trở thất bại, tuy nhiên người này cũng không phải không có tài năng.

Hóa Kỵ ở Mệnh, người này hay đố kỵ với người hiền tài, bụng dạ nhỏ hẹp. Nếu không, bản thân cũng bị người khác xa lánh, đố kỵ, đấu đá lẫn nhau.
Người thủy nhị cục, Mệnh cung phùng Hóa Kỵ không đáng sợ. Bởi lẽ Hóa Kỵ thuộc thủy, người sinh thủy nhị cục phùng Hóa Kỵ, có thể nhờ tác dụng của sao Hóa Kỵ này mà đạt được thành tựu lớn hay nhỏ, nhưng cái hung của Hóa Kỵ cũng không vì vậy mà tan biến, người này vẫn gặp những điều không thuận lợi mà trên đây nói về Hóa Kỵ.

Thiên Đồng tại cung Tuất tọa Mệnh, người sinh năm Đinh đối cung Cự Môn tại Thìn Hóa Kỵ xung, lại tốt đẹp, chủ đại quý.

Cự Môn tại Thìn tọa Mệnh, người sinh năm Tân hội Văn Xương tại Mệnh hoặc đối cung Hóa Kỵ, lại luận là tốt, là kì cách, chủ đại phú đại quý.
Thái Dương, Thái Âm miếu vượng (Thái Dương ở cung Dần Thìn Tỵ Ngọ cung, Thái Âm ở Dậu Tuất Hợi Tý cung) Hóa Kỵ, không hung, lại luận là phúc, nếu Thái Âm Thái Dương cư lạc hãm hội Hóa Kỵ thì đại hung.
Các sao ở hãm địa hội Hóa Kỵ, cực kỵ.
Liêm Trinh tại hãm địa (tỵ hợi), Hóa Kỵ, càng kỵ, chủ đại hung, cư quan lộc thì có tù ngục kiện tụng.
Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tất gặp tai họa ngoài dự kiến.
Hóa Kỵ đồng thủ Mệnh với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, tượng đại hung, đa phần là số ngục tù, tàn phế, chết thảm.

Hóa Kỵ và Thiên Hình đồng thủ Mệnh, đại hung, là điềm chết ngoài đường, chết không toàn thây, hội Tứ Sát càng nguy hiểm. Gặp ở niên hạn, có chảy máu.
Hóa Kỵ thủ Mệnh, đồng cung với Tử Vi, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Khoa, Quyền, Lộc lại hội Dương Đà Hỏa Linh thì làm việc không dứt khoát, hoạnh phát hoạnh phá, không kiên trì, là số phát tài nhưng không bền.
Hóa Kỵ đồng cung với Sát, Phá, Tham, Liêm, Cự, Vũ, Cơ thủ Mệnh, tam phương tứ chính hội một trong Tứ Sát, có tai nạn tù ngục
PHỤ LUẬN
Hóa Khoa nhập Mệnh, dù cho phùng sát kỵ chư ác cũng chủ văn chương tú sĩ, tuy nhiên khó tránh khỏi thanh bần, nếu cung Phu Thê, Tử Nữ và Phúc Đức cung không tốt, còn chủ cô quả.
Quyết viết “Khoa tinh hãm vu hung thần, miêu nhi bất tú”, tức Hóa Khoa dữ Tứ Sát hoặc Sát Phá Liêm Tham Không Kiếp Hao Kỵ Tử Tuyệt Mộc Dục đồng cung tại Mệnh, đa phần chủ khoa danh vô vọng, chỉ hao phí tinh thần mà thôi.
Hóa Khoa thủ mệnh, bình thường tính chất chủ danh dự rõ rệt, nhưng nếu phùng Sát diệu, ngược lại là chủ tự thủ lợi ngầm, thanh thế hư ảo.
Hóa Khoa không thích đồng cung Kiếp Không [Kiếp Không là khuynh gia đãng sản (mất tài sản)] chủ trở ngại, trôi mất, hư danh; hoặc chủ thanh vọng ở phạm vi hết sức mờ nhạt; cũng chủ là nghiên cứu triết học tôn giáo.

(Nguồn: Theo http://kiennd.com/)

Tham Lang


Tham Lang


Tham Lang thuộc Thủy Mộc, Bắc Đẩu đệ nhất tinh, hóa Đào Hoa Sát, chủ họa phúc.
Nhập miếu là người béo đứng thẳng, xương mày khá cao, lạc hãm thì thấp nhỏ, tiếng cao âm lượng lớn. Người có Tham Lang nhập Mệnh, vô cùng tình cảm hóa, tính cách đều tương đối phức tạp, không ổn định, hiếu động, giỏi xa giao tiệc nhậu, một đời hay kết giao bạn bè, bản tính lạc quan, đam mê dục vọng vật chất, thích ăn uống hưởng lạc, rượu chè cờ bạc trai gái không gì là không thể. Là người không câu nệ tiểu tiết, tình cảm thăng trầm nhiều biến động lớn, có lúc thích khôn vặt, cho người khác những ân huệ nhỏ. Khẩu tài lưu loát, khoe khoang, thích thổi phồng, chủ đề bàn luận phong phú, có khuynh hướng hào nhoáng mà không thực. Tâm lý hên xui rất lớn, tính hích đầu cơ, mạo hiểm, hi vọng có thể một sớm một chiều có kì tích hoạch phát xảy ra, làm việc không đủ kiên nhẫn. Đối với tiền bạc khá rộng rãi, lãng phí, một đời tài vật cũng nhiều hư hao. Trong cuộc sống thích được kích thích, thứ gì mới lạ, hợp ý, không chịu cảnh bình thường, không vừa lòng với hiện trạng, luôn hi vọng có sự đột phá trong công việc, vì vậy mới tồn tại cái tật xấu làm không đến nơi đến chốn. Tham Lang thủ Mệnh thích thuật thần tiên, thích nghiên cứu và tìm hiểu thảo luận về văn hóa thần bí khí công tăng đạo. Tính tính khá gấp, hay tính toán, không chịu tĩnh lặng, ham cờ bạc hoa tửu, háo sắc. Người có Tham Lang nhập Mệnh, bất luận nam hay nữ, trừ một số ngoại lệ cực kì cá biệt, tuyệt đại đa số đều có đào hoa hay có ngoại ngộ.

Nữ mệnh, gợi cảm, sớm trưởng thành, thân thể phổng phao có sức thu hút, tính dục cao, chí cao tính cương, xã giao rộng.

Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân ba sao này luôn luôn hội chiếu lẫn nhau, chủ khai sáng cải cách, phá bỏ cái cũ xây dựng cái mới và sự xung kích lớn. Tham Lang hội cát tinh (Phụ Bật, Khôi Việt, Lộc Tồn, Hóa Quyền, Hóa Lộc…) thì là nhân vật quan trọng trong quân đội chính trị, lãnh đạo giới thương gia, phú quý danh tiếng, hội ác sát thì ham tửu sắc, thích cờ bạc, thích ăn chơi hưởng lạc, rượu chè hoa nguyệt.

Tham Lang là đại đào hoa tinh, không thể thoát khỏi sự cám dỗ của sắc tình, Dương Đà hội chiếu, nam mệnh một đời đào hoa nhiều, cũng có sở thích đi chơi gái; nữ mệnh thì dâm đãng, tự do tình dục, Mệnh Thân hai cung có sát tinh e là ca kĩ. Sách viết: “Tham Lang gia sát đồng hương, nữ thâu hương nhi nam thủ thiết”. Tham Lang ở Mệnh, Thất Sát thủ Thân, hội sát diệu, chủ người vụng trộm dâm bồn, nam thì khoét vách, nữ thì vụng trộm. Tham Lang ở Mệnh, Phá Quân thủ Thân, hội sát diệu và Thiên Mã, nam nữ tính thích du đãng, đam mê rượu chè cờ bạc, coi sắc như sinh Mệnh; nữ mệnh lông bông, không ở yên trong nhà, thích giao du kết bạn, thông tư hay dâm bồn với người khác, vì vậy sách viết: “Hao (tức Phá Quân) gặp Tham Lang, sính dâm tình vu tỉnh đế”.

Tham Lang cư Tý Hợi, là phiếm thủy đào hoa, chủ dâm dục, hội Dương Đà, tất là quỷ đói háo sắc, nữ mệnh ai cũng có thể làm chồng.

Tham Lang hội Địa Kiếp, Địa Không, Tuần không, Địa Không va Thiên Hình đồng cung thì không luạn là dâm dục, có thể đứng đắn, đa phần nhiều tín ngưỡng tôn giáo ngoan đạo, cũng thanh bạch đoan chính.

Tham Lang hỉ đồng cung và hội chiếu với Hỏa Tinh, Linh Tinh (tam hợp hội Vũ Khúc càng đẹp), luận là phú quý, có ý nghĩa là vận may không ngờ đến, hoặc chủ võ chức quý hiển. Hội Hỏa Tinh là cách “Hỏa Tham đồng hành”, danh vọng cao, có thể bạo phát; hội Linh Tinh là cách “Tham Linh tương phùng”, có thể nắm quyền, kinh doanh làm ông chủ, tài vận hoạnh phát. Sách viết: “Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng, danh chấn chư bang” (an Mệnh tứ mộ, tam phương cát tinh củng chiếu đặc biệt đẹp. An Mệnh ở Mão cung, thứ đến không có sát tinh, có Dương Đà Không Kiếp thì không hợp cách trên), “Tham Linh tịnh thủ, tướng tượng chi danh” (an Mệnh ở cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý, hội cát tinh, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cách), “Tham Lang Hỏa Linh tứ mộ cung, phú hào gia tư hầu bá quý” (cung Thìn Tuất đẹp, thứ đến cung Sửu Mùi, nếu thủ chiếu có thể luận là tốt, hội Dương Đà Không Kiếp không hợp cách trên).

Tham Lang nhập miếu thọ nguyên cao, hoặc Tham Lang hội cát tinh, lại tọa cung Dần Thân Tỵ Hợi ở Trường Sinh, chủ sống thọ.

Tham Lang Tử Vi đồng cung ở Mão dậu, vô chế, là người vô dụng, được Phụ Bật Xương Khúc giáp chế, không luận như trên.

Tham Lang Vũ Khúc đồng cung, tiền bần hậu phú, sau 30 phát phúc, nhưng là người keo kiệt, vì lợi ích của bản thân mà hại người khác.

Tham Lang Vũ Khúc đồng thủ Thân cung, không có cát tinh Mệnh không thọ. Mệnh không có cát tinh, Thân cung là Vũ Khúc Tham Lang, chủ nghèo.

Tham Vũ đồng hành hội cát tinh, chủ người uy oai chấn áp biên cương.

Tham Lang đồng cung với Xương Khúc, là người đa hư thiểu thực, cho người khác cảm giác giả dối, giỏi lừa bịp.

Tham Lang Kình Dương cư cung Ngọ, người sinh năm Bính Mậu trấn thủ biên cương, là cách “Mã đầu đới tiễn”, phú quý.
Tham Lang nhập Mệnh, người sinh năm Thân Tý Thìn Mệnh tọa cung Tý; người sinh năm Dần Ngọ Tuất Mệnh tọa cung Ngọ; người sinh năm Hợi mão Mùi Mệnh tọa cung Mão; người sinh năm Tỵ Dậu Mệnh tọa Dậu cung, là cách “Tham hội vượng cung”, chủ người có thể bản tính bất chính, đam mê hưởng thụ vật chất, thị phi không rõ ràng, có lúc hồ đồ, không tụ tài, một đời thành tựu không lớn, hội sát tinh có hành vi trộm cắp.

Tham Lang đồng cung với Liêm Trinh tại Tỵ Hợi, nam phóng đãng, nữ đa dâm. Chủ người không thuần khiết, họi sát tinh tửu sắc đeo bám, gặp kiện tùng hình phạt, nghèo khổ, phá tướng, tàn tật.

Tham Lang Hóa Lộc, tài vượng, quen biết khắp thiên hạ, may mắn ngoài dự kiến, đa phần xinh đẹp, được sự trợ giúp của người khác phái, hội Hỏa Linh bạo phát.

Tham Lang Hóa Quyền, có quyền bính, danh vọng cao, thích hưởng thụ, có vận hên ngoài ý muốn, tài vận tốt.

Tham Lang Hóa Kỵ, thích tửu sắc, nhiều thị phi, dễ có hình thương ngục tù, bệnh tật nhiều ở nửa người dưới. Tham Lang ở Thìn Tuất không sợ Hóa Kỵ, Người Tham Lang thủy nhị cục không sợ Hóa Kỵ.
Tham Lang nhập Mệnh, là cao thủ “không thủ đạo”, giỏi thông qua các mối quan hệ xã hội mà đạt được mục đích, tay không kiếm lợi, không thích hợp với cái gọi là “chăm chỉ làm lụng mà giàu”, thích hợp với nghề nghiệp đầu cơ, công việc mang tính xã giao, thích hợp diễn xuất, kĩ thuật, văn hóa, ẩm thực, chứng khoán, tài chính, quảng cáo, công ty du lịch, xuất khẩu, quan hệ công chúng, bộ giáo dục… không ít những người kinh doanh cá thể, chủ công ty là Mệnh Tham Lang.

Tham Lang tại Tý Ngọ

Vượng cung, độc thủ. Người sinh năm Đinh Kỷ phúc dày, Xương Khúc đồng cung, đa hư thiểu thực, chủ người có khẩu tài tốt, giỏi đối nhân xử thế, có tu dưỡng, thích văn học nghệ thuật, tình cảm khá phức tạp, hay tưởng tưởng.

Tham Lang ở Tý, Người sinh năm Bính Mậu Canh và Dần Thân thì hạ cách, Tả Hữu Xương Khúc hội chiếu thì hoạnh phát hoạnh phá. Người sinh năm Thân Tý Thìn, cả đời không có thành tựu. Hỏa Linh đồng cung, hội cát tinh, người sinh năm Mậu Kỷ, là bậc tướng quân. Kình Dương đồng cung, làm nghề giết mổ, làm những công việc thấp hèn, nếu như hội Tả Hữu Xương Khúc thì có thể làm ông chủ, một đời tất gặp thất bại phá sản lớn, cũng khó mà đứng dậy. Kình Dương đồng cung hoặc hội Kình Dương Đà La, cũng hội Đào Hoa chư diệu, là phiếm thủy đào hoa, chủ dâm dục cùng cực, vì sắc mà diệt thân.

Tham Lang tại Ngọ, Mộc Hỏa sáng rực rỡ, chỉ người thông minh có thành tựu, người sinh năm Đinh Kỷ phúc dày, người sinh năm Canh và Dần Thân cả đời không có thành tựu. Người sinh năm Bính Mậu, Kình Dương đồng cung lại tốt, là cách “mã đầu đới tiễn”, phú quý. Thích hợp võ nghiệp, kinh doanh, cũng chủ người rời xa quê hương, lập nghiệp bên ngoài. Nữ mệnh nếu gặp các trên thì chủ dâm tiện, đa phần dùng tiền mờ ám để xây dựng nhà cửa.

Tham Lang tại Sửu Mùi, Vũ Khúc đồng cung
Vũ Khúc tại Sửu Mùi, Tham Lang đồng cung là cách “Tham Vũ đồng hành”, Vũ Khúc là tài tinh, Thái Dương ở Dần Thân, Thái Âm ở Tý Sửu giáp, nên còn gọi là cách “Nhật Nguyệt giáp tài”. Sách viết: “Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân”, “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập dĩ phát phúc”, “Nhật Nguyệt giáp tài gia cát diệu, bất quyền tắc phú” , “Tiền bần hậu phú, Vũ Tham đồng Thân Mệnh chi cung”.
Cách cục này đa phần là tiền bần hậu phú, khi trẻ vất vả hay là người bình thường, sau 30 tuổi vận khí hanh thông, tài vận rất vượng. Tả Hữu Xương Khúc tại tam hợp hội chiếu hay ở cung giáp đến hỗ trợ Mệnh, là cách tốt đẹp. Hội Hỏa Linh, thượng cách, tất hoạnh phát, đa phần là thương nhân, chủ quản, ông chủ. Người sinh năm Mậu Kỷ Canh Tân, kiến Hỏa Linh đồng cung là quý cách. Người sinh năm Quý bạo phát, nhưng không bền. Người sinh năm Giáp tọa quý hướng quý, Đà La nhập miếu, Khoa Quyền Lộc củng chiếu, kinh doanh đại phú. Lập Mệnh ở Mùi, người sinh năm Canh Vũ Khúc Hóa Quyền, tọa quý hướng quý, cách tốt đẹp.

Vũ Tham Sửu Mùi, có đào hoa, là người keo kiệt gian xảo, bụng dạ nhỏ nhen, lòng tham vô đáy, miệng phật tâm xà, tự tư tự lợi, hội hung tinh càng xấu, luôn nhen nhóm làm giàu bất chính cho bản thân, không giúp đỡ cứu tế người khác.

Nữ mệnh có tính chất thần kinh, keo kiệt, ngôn từ giả dối, lòng tham vô đáy.

Tham Lang tại Dần Thân

Tham Lang bình hòa, đối cung Liêm Trinh, đa tài đa nghệ, giỏi xử lý công việc, chí khí cao ngạo, thích chính trị.

Văn Xương hoặc Văn Khúc đồng cung, chủ người đa hư thiểu thực. Người sinh năm Canh, tài quan song mỹ. Người sinh năm Giáp Mậu Kỷ, thích hợp kinh doanh phát tài, hội Hỏa Linh, đột ngột hoạnh phát tiền tài, đại phú quý.

Tham Lang tại Dần, hội Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, có thành tựu. Đà La đồng cung, phong lưu, dâm loạn, vì sắc mà dẫn đến họa. Hội Kình Dương, Thiên Hình, có tai họa tù ngục.

Tham Lang tại Thân, bắt nguồn từ Kim sinh Thủy, một đời bôn ba, phải chịu gian khổ sau mới thành công, cũng có một giai đoạn phát tài. Chủ người trí tuệ hơn người, người sinh năm Giáp Mậu Kỷ Canh phú quý. Người sinh năm Quý, Mộc phùng Kim chế, Quyền Lộc giáp Mệnh, Song lộc triều viên, hội Hỏa Linh cực quý, lại hội thêm Tả Hữu thì danh chấn thiên hạ. Người sinh năm Tân Đà La đồng cung, là người giết mổ, địa vị thấp.

Tham Lang tại Mão dậu, Tử Vi đồng cung

Tử Vi tại Mão Dậu, Tham Lang đồng cung, là người khá hào sảng thẳng thắn, phản ứng nhanh nhẹn, tiêu tiền hào phóng, giỏi xã giao, đầu óc linh hoạt, có năng lực ngoại giao và năng lực làm việc tốt.

Tham Lang là đại đào hoa tinh, đồng cung với Tử Vi ở Mão Dậu, là cách cục “Đào hoa phạm chủ”, háo tửu sắc, là người phong lưu, tươi đẹp, ngộ Đào Hoa, Mộc Dục, Thiên Hỉ, Hóa Khoa, Đại Hao tinh tất dâm không thể nói hết được.

Dữ một trong các sao Lộc Tồn, Tả Phụ, Hữu Bật, Xương Khúc, Văn Xương, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung thì có thể luận là tốt, cát tinh càng nhiều thì phú quý càng nhiều. Nếu không có Phụ Bật Xương Khúc giáp chế, tất đào hoa phạm chủ thì là người vô dụng, bất trung bất nghĩa, tâm thuật bất chính, gian trá, thường giao thiệp qua lại với những người không ra sao. Đồng cung với Xương Khúc, có phú quý nắm quyền, quan vận thanh danh, nhưng là người đa hư thiểu thực, nói không giữ tín.

Thấy Hỏa Tinh hay Linh Tinh đồng cung, là quý cách, có Hỏa Linh hội cũng là quý cách, nếu Hỏa Linh ở Mệnh cung thì càng đẹp. Người sinh năm Ất Mậu Kỷ Tân Nhâm thì tốt, thuận lợi. Người sinh năm Giáp Canh dù quý nhưng không được dài lâu. Hội Không Kiếp Tứ Sát, tôn giáo tin ngưỡng hoặc là tăng ni đạo sĩ, hoặc là thuật sĩ giang hồ.

Không Kiếp đồng cung tại Mệnh cung, giỏi thuật thần tiên, có nhiều nghiên cứu và sở thích với tôn giáp, chiêm bốc, đông y, thần học, khí công… nếu theo đuổi tu luyện khí công hay pháp thuật có thể đạt trình độ tương đối cao.

Vũ Khúc Phá Quân thủ Tài Bạch cung, hội sát tinh đồng cung, bản tính lãng phí, không tụ tài, tiền tài đến tay thì hóa hư không.

Nữ giới, đa phần gợi cảm, dung mạo xinh đẹp, được nhiều người theo đuổi, cuộc sống tình cảm cuộc sống không bình ổn, tình yêu không thuận, tất phải trải qua nhiều lần yêu đương. Hội Dương Đà Xương Khúc Thiên Riêu, nhu cầu đời sống tình dục lớn, dâm dục, cả đời có nhiều quan hệ với nam giới, hay lạc vào chốn phong trần, làm thân ca kĩ, cung Phu Thê, cung Tử Tức, cung Phúc Đức nếu gặp hung tinh thì càng nguy hiểm.

Tham Lang độc tọa tại Thìn Tuất

Tham Lang tại Thìn Tuất nhập miếu độc thủ, đối cung Vũ Khúc, hội cát tinh, có thể là thương gia tài ba, sau 30 tuổi tất phát đạt.

Thìn là thiên la, Tuất là địa võng, hội Hỏa Linh, giúp thoát khỏi thiên la địa võng, nếu không có Dương Đà không kiếp thì có thể phú quý, là chủ quản, ông chủ, thương gia lớn hay võ chức cấp cao.

Người sinh năm Mậu Kỷ tài quan song mỹ. Người sinh năm Quý, phúc không bền.
Người sinh năm Thìn Tuất Sửu Mùi, lạc không vong, lại là chính không phải tà, lạc vào đất Triệt không cũng vậy, không có hành vi bất lương, đa phần có chuyên môn kĩ thuật hoặc thành danh nhờ kĩ nghệ. Thiên Hình đồng cung, võ quý, thích hợp phát triển trong giới quân đội, chính trị.

Hội cát tinh, sống thọ.

Xương Khúc đồng cung, đa hư thiểu thực, hào nhoáng, thích hợp làm các công việc giáo dục. Dương Đà đồng cung, nam nữ tà dâm, là người giết mổ.

Tham Lang tại Tỵ Hơi, Liêm Trinh đồng cung

Tham Lang tại Tỵ Hơi, Liêm Trinh đồng cung, hai sao trên đều hãm địa, cách cục khá kém.

Liêm Tham Tỵ Hợi, Thân hình trung bình, da trắng vàng, không béo không gầy, quan hệ xã giao viên mãn, ngôn từ phong phú, ít có chủ kiến, tình cảm xung động, tính tính dễ yêu dễ ghét, không cố định. Hai sao này đồng cung, nhiều người đành giá thấp, Tham Lang là đại đào hoa tinh, Liêm Trinh là thứ đào hoa tinh, Nam mệnh được cách này tất là kẻ háo sắc, thích dâm lạc, cờ bạc rượu chè. Hội hung tinh, vì tửu sắc mà chết . Sách viết: “Liêm Lang Tỵ hợi cung, ngộ cát lộc doanh phong. ứng quá tam tuần hậu, tu phòng bất thiện chung”, một đời thường gặp hung nguy, sát tinh nhiều thì đoản mệnh.

Nữ mệnh thì phóng tung đa dâm, thủy tính dương hoa, hôn nhân tất có biến. Đồng cung hay hội chiếu với Tứ Sát, Thiên Riêu, Đào hoa thì dâm dục vô sỉ, là ca kĩ. Nữ mệnh Liêm Tham thủ mệnh đa phần là vợ hai, hoặc cưới người đã từng ly hôn.

Hội Thiên Mã, đa phần chủ sớm rời xa quê, ra ngoài mưu tính phát triển. Có thể tòng quân, hoặc chủ người phiêu bạt khắp nơi, một đời bôn ba không yên, hội hung tinh thì hạ tiện nghèo khó, rời xa tổ tông, chết ở đất khách.

Xương Khúc đồng cung, là người đa hư thiểu thực, tính cách ti tiện, cần phòng nạn xe cộ, tai nạn trên không, hoặc từ trên cao rơi xuống ngoài dự kiến mà dẫn đến tử vong. Xương Khúc và Hóa Kỵ đồng cung, người sinh năm Bính tất có đại hoa, thường đột tử.

Người sinh năm Bính Tham Lang Hóa Lộc, cũng hội Lộc Tồn, hội Hỏa Linh đồng cung chủ đại phú quý, hoặc là lãnh đạo cấp cao trong quân đội, trong giới chính trị hay là anh hùng thảo khấu nổi tiếng giang hồ, hay là cự phú trong giới thương gia.

Liêm Tham tại Tỵ, người sinh năm Canh hội Kình Dương ở Dậu, khó tránh tù ngục, người sinh năm Tân Lộc Tồn tại Dậu, có thể có phú quý, nhưng không bền.

Liêm Tham tại Hợi, là cách “Phiếm thủy đào hoa”, người sinh năm Nhâm phú quý, nhưng phúc không bền; người sinh năm Giáp hội Kình Dương tại Mão, khó tránh tù ngục; người sinh năm Quý Đà la Kỵ đồng cung, không theo chính nghiệp, làm hoạt động phi pháp, hoặc mánh khóe không ra sao, đa phần là số nghèo, phá tướng, tàn tật, chết yểu.

(Nguồn: Theo http://kiennd.com/)

Thất Sát


Thất Sát


Thuộc Hỏa, Kim, Nam Đẩu đệ lục tinh, là Tướng tinh, hóa Đế vi Quyền
Người có Thất Sát nhập Mệnh, mắt to, xương mày nổi bật, mắt có vẻ uy nghiêm, khuôn mặt vuông dài hoặc gầy dài, có nếp nhăn, trên mặt có nhiều vết đốm hoặc rỗ. Thân thể có thương tích, nhập miếu béo, lạc hãm thì gầy nhỏ, vẻ ngoài tháo vát pha lẫn sức khỏe. Hành vi phóng khoáng ngang tàng, không câu nệ tiểu tiết, tốc độ đi nhanh. Cá tính vô cùng hiếu thắng, quật cường cứng rắn, có sự tự chủ độc lập, có khí khái bất khuất, tính tình dữ dội, dễ nổi cáu, hỉ nộ ái ố thể hiện trên khuôn mặt. Không thích bị người khác can thiệp ràng buộc, sự độc lập lớn, dũng cảm, có dũng khí và sự thực hành, đối mặt với khó khăn sẽ dũng cảm tiến về phía trước, tuyệt đối không sợ hãi. Là người thích đầu cơ mạo hiểm, không sợ không làm được, chỉ sợ không nghĩ ra, trong cuộc sống là kiểu người khai sáng tiến công. Có mưu lược, có năng lực lãnh đạo thống lĩnh tốt, chỉ có điều tính tình quá gấp gáp, thường bực tức, dễ coi cấp trên là vô dụng, nên có tâm lý phạm thượng, đối với cấp dưới, bạn bè thì tương đối khoan dung. Thành bại một đời thường đến rất đột ngột, bất luận nam hay nữ, đều phải trải qua khó khăn mới có thành tựu.
Nữ mệnh Thất Sát, tính tình hướng ngoại, hoạt bát hào phóng, có khí chất, tính cương, làm việc già dặn, có tinh thần trượng nghĩa, thích giúp người, thuộc loại hình của công việc, không có hứng thú gì với chuyện làm vợ hiền mẹ tốt, sau khi kết hôn tất đoạt quyền chồng, chồng phải nghe lời vợ.

Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân ba sao này luôn luôn hội chiếu lẫn nhau, chủ khai sáng cải cách, phá bỏ cái cũ xây dựng cái mới và có tính xung kích cao.

Thất Sát là Tướng tinh, hội cát tinh (Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa…) là nhân vật quan trọng trong quân đội chính trị, lãnh đạo giới thương nhân, phú quý nổi danh, hội ác sát thì hình thương, bạo bại, tàn tật, ngục tù, đoản mệnh, nghèo khó.
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ, một đời tước lộc vinh xương. Thất Sát tại Dần, Tý là cách “Thất Sát ngưỡng đẩu”, tại Ngọ, Thân là cách “Thất Sát triều đẩu”, là bậc anh hùng hào kiệt, công danh phú quý, hội sát tinh thì không phải.

Thất Sát thủ Mệnh, Thân cung là đoản Mệnh, dù miếu hãm có hay không có cát tinh đều vây. Thất Sát lâm Mệnh Thân cung đa phần là người khó sống thọ, hối át tinh càng đúng. Vì vậy người có Thất Sát tọa Mệnh chỉ có hành thiện tích đức, không làm việc ác, mới có thẻ tránh được số đoản Mệnh.
Thất Sát thủ Mệnh, miếu vượng, được Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, nắm quyền sinh sát, phú quý xuất chúng, nếu có hung tinh hội chiếu thì vẫn được phú quý, nhưng nhiều trắc trở, thường gặp hung hiểm, hoặc không có kết cục tốt.

Thất Sát nhập Mệnh Thân cung, bất luận có cát tinh hay không, đều phải trải qua gian khổ. Không hội cát tinh cát hóa mà hội sát tinh thì tất chết yểu.
Thất Sát cư nhàn hãm cung (Mão Dậu), kĩ nghệ an thân, hội Lộc Tồn chủ phú quý, lại hội Xương Khúc thì chủ lênh đênh.

Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh hội sát tinh, chủ tàn phế, cũng chủ bệnh lao, chết yểu.
Thất Sát Liêm Trinh đồng cung, “Lộ thượng mai thi”. Cách này là cách “Sát củng Liêm Trinh”, cư Thân Mệnh cung hội sát tinh thì chủ lang bạt, chết ở đất khách. Nếu không luận là phạm tội, khó tránh ngục tù, cung Di cũng vậy, lấy người phối ngẫu phương xa.

Thất Sát nhập Mệnh, là người phá tướng và có tai họa máu chảy, chỉ là mức độ nặng nhẹ không giống nhau. “Thất Sát trùng phùng Tứ Sát, yêu đà bối khúc, trận trung vong, cư tật ách cung diệc sát”. Đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh, là hỏa cực lớn, một đời nhiều tai nạn khó khăn, có bệnh, tàn tật thì có thể sống lâu thêm, không tất chết yểu. Thất Sát đồng cung với ác sát, tâm tính hiểm độc, nếu không cũng chủ thô bạo, hỉ nộ vô thường, thường có khuynh hướng bạo lực phạm tội.
Thất Sát thủ Mệnh, tam phương tứ chính có Kình Dương (hoặc Đà La), Hỏa Tinh (hoặc Linh Tinh), Bạch Hổ, Thiên Hình, tất là đầu mắt của xã hội đen. Người có Thất Sát ở Mệnh hội sát thì hai con đường đen trăng đều có phần.

Thất Sát, Phá Quân phân nhau thủ Mệnh Thân cung, thường thủ công tinh thông, là số lao lực, bôn ba ở ngoài.
Thất Sát cư tuyệt địa, hội Dương Đà, chủ bần tiện, hoặc chết yểu, dù có tài hoa cũng sẽ tàn.
Thất Sát hội Dương Đà ở đất Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi), là người giết mổ.
Thất Sát lạc không vong, mất hết uy lực. Người đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, Tuần không, Triệt không thì lục thân duyên bạc, cô độc không trợ giúp, đa phần là người không màng danh lợi hoặc theo con đường tăng đạo.

Thất Sát chủ hoạnh thành hoạnh phá, một đời thay đổi đa đoan, thăng trầm bất định. Nhập Mệnh cung, thường là tay trắng dựng nghiệp. Hoặc từ không một xu dính túi lại tiền dắt đầy người, hoặc trong lúc công thành danh toại lại một chiều phá bại, tiền bạc tán hết.
Sao Thất Sát nhập Mệnh, kinh doanh hay làm nhà nước đều được, nếu kinh doanh thì chỉ buôn bán là được, nếu đầu cơ tất có nguy hiểm khuynh gia bại sản. Đa phần làm các công việc có tính sáng tạo mạo hiểm như kiến trúc, trùng tu, sinh sản, cơ khí, xe cộ, vận tải, bác sỹ, võ thuật, vận động viện, cảnh sát, quân đội, chứng khoán, tài chính, xuất khẩu, chủ công ty,…. Hội cát tinh thì phú quý, không hội cát tinh thì là nhân viên bình thường.

Nữ mệnh Thất Sát, có khí khái nam nhi, thích lấy kinh doanh làm niềm vui, một đời thường vất vả, phúc không đẹp hoàn toàn. Hội nhiều cát tinh (Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt, Lộc Tồn, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa) củng chiếu thì là nữ trung hào kiệt, thành tựu phi phàm, không hội cát tinh mà hội sát tinh thì hôn nhân không tốt, hình khắc, cô đơn, một đời nhiều hung họa.
Thất Sát đồng cung hội chiếu với Văn Xương Văn Khúc, đại cát, chủ người thông minh quả quyết, thường là nhân vật lãnh đạo.
Thất Sát đồng cung hội chiếu với Tả Hữu, đại cát, lỗi lạc, có khí khái anh hùng, năng lực thống trị mạnh, nhận sự giúp đỡ của nhiều người, dễ thành đại nghiệp.
Thất Sát đồng cung với Lộc Tồn, đại cát, vốn có duyên với tiền bạc, kinh doanh có thể thành cự phú.

Thất Sát tại Tý Ngọ
Thất Sát vượng, đối cung là Vũ Khúc Thiên Phủ, chủ người kiên cường, cương nghị, có mưu lược, có tính độc lập và tự chủ, có năng lực lãnh đạo mạnh, một đời thường được quý nhân nâng đỡ, dù hội cát tinh nhưng vẫn phải trải qua gian khổ. Cách “Thất Sát triều (ngưỡng) đẩu”, cát tinh hội chiếu, một đời tước lộc vinh xương. Hội Tứ Sát hay các ác sát tinh không phải cách trên. Không hội Tứ Sát, là người tích góp mà giàu có. Phụ Bật Xương Khúc củng chiếu, nắm quyền sinh sát, phú quý xuất chúng.
Tứ Sát xung phá, nếu không tàn tật chết yểu, cũng chủ gặp hung họa ngoài dự kiến mà tử vong, chiến trận đa hung, có nguy hiểm tử trận.

Thất Sát tại Ngọ thủ Mệnh, Liêm Trinh thủ Thân, hoặc Liêm Trinh Thất Sát đồng cung tại Mùi, là cách “Hùng túc triều viên”, chủ người phong thái khoáng đạt, lòng dạ đơn giản, hội cát tinh thì đều bước nhẹ lên mây xanh, danh tiếng vang xa. Người sinh năm Giáp Đinh Kỷ, tài quan song mỹ. Người sinh năm Giáp, cung quan lộc Phá Quân Hóa Quyền, đối cung Vũ Khúc Hóa Khoa; người sinh năm Đinh, cung Ngọ có Lộc Tồn; người sinh năm Kỷ, cung ngọ Lộc Tồn và Vũ Khúc Hóa Lộc, đều phù trợ cho Thất Sát xây dựng thành đại sự đại nghiệp.
Người sinh năm Bính Mậu, trung bình, do hội Dương đà. Chủ người dũng cảm, thô bạo, thích mạo hiểm, tự cho mình đúng, thích mềm không thích cứng, vì cầu tiền tài mà bại trận, buất khuất. Đa phần là người vung tiền như rác, hoạnh phát hoạnh phá. Thất Sát tại Ngọ, người sinh năm Bính Mậu Kình dương đồng cung, tam hợp hội cát tinh, là tướng lĩnh trấn thủ biên cương, hoặc làm người bạo phát về đầu tư kinh doanh, chủ người thành danh trong một sớm một chiều chiều, bạo phát bạo bại, kết cục đa phần không tốt đẹp, tuy phú quý nhưng cũng chết yểu. Hoặc là liệt sĩ hi sinh vì nghĩa. Lại hội hung sát thì coi thường pháp luật, đâm đầu vào chỗ hiểm nguy, tất chết dưới đao kiếm.

Thất Sát tại Sửu Mùi, Liêm Trinh đồng cung
“Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai”, tất là số phải ra ngoài, thích hợp võ chức hay kinh doanh.
Hai sao trên đồng cung tọa Mệnh, chủ người dũng cảm, dám mạo hiểm, làm việc dễ một mình một đường, cả đời cũng có nhiều thăng trầm và khúc triết. Chịu gian khổ, vất vả, đặc biệt là khi còn trẻ.
“Liêm Trinh Thất Sát, phản vi tích phú chi nhân”. Giỏi quản lý tiền bạc, người sinh năm Giáp tọa quý hướng quý, Mệnh cung Liêm Trinh Hóa Lộc, hội Phá Quân Hóa Quyền và Vũ Khúc Hóa Khoa, lại hội Tả Hữu Xương Khúc, không quý tất đại phú, là cách “Liêm Trinh thanh bạch”; người sinh năm Canh tọa quý hướng quý, Vũ Khúc Hóa Quyền, hội cát tinh cũng có thể phú quý.
Người sinh năm Bính Liêm Trinh Hóa Kỵ, hội sát tinh, tất có tai họa thương tích chảy máu, có thể gặp tai họa bất ngờ, là cách “Lộ thượng mai thi”.
Liêm Sát Sửu Mùi, sẽ hoạnh phát, hung tinh đồng cung hay hội chiếu không có cát tinh thì chủ bần tiện, tuy hoạnh phát một thời nhưng tất đại bại.

Thất Sát tại Dần Thân
Thất Sát nhập miếu, đối cung là Tử Vi Thiên Phủ, ở Dần là cách “Thất Sát ngưỡng đẩu”, ở Thân là cách “Thất Sát triều đẩu”, nhiều cát tinh thì hợp cách, hội sát tinh thì không hợp. Ở cách này Thất Sát ở vị trí thuận lợi nhất, nhập miếu được Tử Phủ hội chiếu, tuyệt đối không phải người tầm giữa giữa, mà chủ người tước lộc vinh xương, không phú tất quý. Bẩm sinh có năng lực quản lý cực tốt, có mưu lược. Hội cát tinh, cũng phải trải qua gian khổ. Hội nhiều cát tinh, Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, tất là đại tướng, thiện chiến, uy chấn thiên hạ, hoặc là trụ cột quốc gia, lưu danh muôn đời, thứ đến cũng có thể là nhân vật quan trọng trong giới chính trị, chủ quản hành chính, phú ông, hoặc có quyền lớn trong quân đội, cục cảnh sát…
Người sinh năm Giáp Đinh Kỷ, tài quan đều tốt, là người phú quý. Người sinh năm Bính Mậu trung bình. Người sinh năm Canh Nhâm và người sinh năm Ngọ Tuất, không tốt, phú quý không bền. Đà la đồng cung, tàn tật. Hội Tứ Sát, chết trận, chết thảm. Không Kiếp xung chiếu, chủ sớm tàn.

Thất Sát tại Mão Dậu, Vũ Khúc đồng cung
Thiếu niên không thuận lợi, thích hợp làm kinh doanh. Là người có dã tâm lớn, dục vọng không giới hạn. Làm việc rõ ràng, có mưu lược, hiệu quả cao, chỉ có điều độc đoán chuyên quyền, vì tiền bạc mà sẵn sàng thẳng tiến, sẵn sàng chiến đấu đến cùng. Tính tình thích phân tranh, tư tưởng may mắn cực mạnh, đa phần đều thích mạo hiểm đầu cơ. cuộc sống cuối cùng thăng trầm bất ổn, cũng nhiều hình thương, hội cát tinh cũng tất phải trải qua gian khó.

Người sinh năm Ất Tân Lộc Tồn ở Mệnh hoặc ở cung Di, phúc dày, tài quan song mỹ. Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, phú quý. Người sinh năm Giáp dù có lúc hoạnh phát nhưng vinh hoa không bền. Vì Tài Bạch có Liêm Trinh, nên một đời cũng có phá sản.
Tứ Sát đồng cung, tính tình hung bạo, tất có họa máu chảy, tàn tật bị thương hoặc có họa sát Thân, có thể giảm thọ.

Kình Dương đồng cung, vì tiền mà động dao kiếm,. Hỏa Tinh đồng cung, vì tiền mà bị cướp.
Vũ Sát Mão Dậu thích hợp làm quân cảnh, địa ốc, đầu cơ kinh doanh, mua bán chứng khoán, công việc kĩ thuật, kiến trúc hay các ngành có tính chất mạo hiểm khác.

Nữ mệnh tính cương, có chí khí nam nhi, trong nhà bắt nạt chồng, hôn nhân có nhiều trắc trở.

Thất Sát tại Thìn Tuất
Thất Sát miếu, đối cung là Liêm Trinh Thiên Phủ. Chủ người dục vọng không đáy, tâm trí mạnh mẽ sâu xa, giàu tưởng tượng, tính trầm ngâm, tính thống trị cao, có phong thái đại tướng. Thất Sát nhập đất thiên la, dù có cát tinh củng chiếu, cũng phải chịu khó khăn gian khổ, trong khó khăn mà thành đại nghiệp. Hội cát tinh, tài quan song mỹ. Có mưu lược. Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, nắm quyền sinh sát, tất là tướng soái. Lập Mệnh tại Tuất, người sinh năm Giáp đối cung là Liêm Trinh Hóa Lộc, cung Quan Lộc Lộc Tồn và Phá Quân Hóa Quyền, hội Tả Hữu Xương Khúc, binh quyền ngàn dặm, càn quét thiên hạ. Lập Mệnh ở Thìn, người sinh năm Quý song lộc triều viên, Khôi Việt giáp Mệnh, đại phú quý.

Sao này ở Mệnh, không có cát tinh cát hóa, khó tránh chết yểu, đa phần chủ hung vong. Xương Khúc đồng hội, chính chiếu đối cung Liêm Trinh, dù phú quý cũng phải đề phòng chết yểu, nếu hành thiện có thể tránh được.

Thất Sát tại Tỵ Hợi, Tử Vi đồng cung
Tử Vi tại Tỵ Hợi, Thất Sát đồng cung, cá tính kiên cường, cố chấp, có năng lực kinh doanh, quản lý ưu tú, khả năng nhẫn nại tốt, trí sự nghiệp lớn mạnh, luôn muốn phát triển lên. Hay được sự giúp đỡ của quý nhân, bước chân chậm rãi lên mây.
Tử Vi Thất Sát được Lộc Tồn đồng cung tức hóa thành quyền, lại là điều tốt, gặp Xương Khúc Lộc Tồn, luận là cự phú đại quý. Cung Tài Bạch Vũ Khúc Tham Lang được Nhật Nguyệt giáp, thích hợp làm chủ, gia thêm Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh ở cung Tài Bạch, hoạnh phát tiền tài.
Hội không vong, dựa bóng hư danh, sau khi chết có chút danh tiếng. Hội Tứ Sát, không quý, cô độc, hình thương. Hỏa Linh tại cung Mệnh, gian trá, tuy phú quý cũng là kẻ tiểu nhân nịnh họt, bị mọi người xa lánh. Đà La tại cung Mệnh, khó tránh cảnh tù lao.

Người sinh năm Bính Mậu Nhâm, Tử Vi Thất Sát Hóa là Quyền, phúc dày, có thể tay trắng làm nên cơ nghiệp, kinh doanh đại phát, phú quý. Xương Khúc hội, quý hiển. Người sinh năm còn lại phú quý đều ít.
Nữ mệnh, chú tâm đến sự nghiệp, sẽ gả cho người có tiền.

Cách cục Thất Sát triều đẩu

Sao Thất sát trấn mệnh, nhập cung Tý, Ngọ, Dần, Thân lại gặp Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi Việt gia hội là hợp cách cục này. Sao Thất Sát nhập miếu tại cung Thân, Vượng tại cung Tý, Ngọ. Nên Thất Sát trấn mệnh tại cung Thân, Ngọ là ” Triều đẩu” (Chầu về Bắc Đẩu), Trấn mệnh tại cung Dần, Tý là ” Ngưỡng đẩu” ( Ngửa trông Bắc Đẩu), cách cục này có mang sát khí, nên bản thân phát đạt ắt sẽ khiến một số người khác gặp tai họa, hoặc cũng có thể khiến nhiều người phải chết vì mình. Nếu lá số gặp cách cục này, chủ về theo nghiệp võ sẽ hiển quý, thống lĩnh đông đảo quân đội, nếu không cũng là người sáng lập công ty, là nhân tài kinh doanh, chắc chắn sẽ giàu to. Nếu gặp cát tinh gia hội, nhưng lại gặp hung tinh là phá cách, chủ về nhiều thăng trầm, lên voi xuống chó, chóng phất, chòng bại cho dù phát tài cũng không thể duy trì được lâu bền, hơn nữa phần nhiều đều gặp kết cục xấu. Nếu gặp cát tinh tai họa sẽ được tiêu giảm bớt mà trở thành cách cục bình thườn. Nếu không gặp cát tinh, lại bị hung tinh nằm cùng cung hoặc gia hội, sẽ trở thành mệnh xấu, chủ về hung ác, bạo tàn, tàn tật, bôn ba, phạm tội, tù ngục, tuổi thọ không được cao.

Ưu điểm: Cuộc đời nhiều biến động, tuổi trẻ gian nan, nhưng có mưu lược, có tài năng, kiên trì nhẫn nại, có năng lực sáng tạo, hoạch định, phân tích, tư duy, dũng cảm, quyết đoán, khắc phục được khó khăn, để đạt được thành công, chức tước vinh hoa.
Khuyết điểm: Là cách cục biến hóa từ Sát Phá Tham, dê mắc phải thị phi, khó tránh khỏi bôn ba vất vả.

Ca Quyết:
Cách danh triều đẩu quý vô nghi
Nhập miếu tu giao phúc lộc tề
Liệt liệt trùng trùng danh hiển diệu
Bình sinh an ổn hảo căn cơ
Thất sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi Việt, Tả Hữu, Văn Xương hội
Khoa lộc danh cao thực vạn chung

Nghĩa là:
Cách cục triều đẩu là đáng quý
Nhập miếu phúc lộc được vẹn hay
Rực rỡ uy danh thân hiển hách
Một đời yên ổn vững vàng thay
Thất sát tại Dần, Thân, Tý Ngọ
Khắp nơi quy phục kẻ anh hùng
Gặp Khôi, Việt, Tả, Hữu, Xương Khúc
Công dah hiển đạt lộc muôn trùng

Kinh văn có viết: ” Thất Sát triều đẩu tước lộc vinh hoa”. ” Thất Sát tại Dần Thân, Tý Ngọ một đời ăn lộc cực vinh hoa”, “Triều đẩu, Ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa”, ” Thất Sát trấn mệnh, miếu vượng có mưu lược, gặp Tử Vi lại gặp các cát tinh ắt thành đại tướng”, ” Thất Sát trấn mệnh được Tả , Hữu, Xương, Khúc hội chiếu có được quyền sinh sát, phú quý siêu phàm”, ” Thất Sát nhập cung thân mệnh, gặp cát tinh cũng phải nếm trải gian nan”.

PHỤ LUẬN
Tinh tính: dương kim, chúc hỏa, hỏa hóa chi kim. Cô khắc hình sát chi túc, chủ thành bại, ti sinh tử quyền bính. Đại biểu uy nghiêm, khắc nghiệt, xung động, kịch liệt, mạo hiểm, biến động, tai nạn. Thiên Lương, Thất Sát chủ quản kỷ luật hình pháp chi quan, duy Thiên Lương chủ văn hậu, Thất Sát chủ võ tiền, tại quân trung vi hiến binh, tại hành chính xí nghiệp là chủ quản. Tại quan lộc cung đắc địa, khả hóa họa vi tường. Hạn hành phùng Triệt không, Địa Kiếp, Thiên Khôi (Thiên Không?) đẳng hung tinh tụ hội thì, thì có khả năng bị sát hại hoặc có tai nạn lớn. Hạn niên bất hỉ hành Cơ, Cự đích cung độ.
Thất Sát Phá Quân vi tướng tinh, Thất Sát chủ soái, lao tâm, gian tân, độc đương nhất diện, độc lập xử sự; Phá Quân vi tiên phong, lao lực, đa ba động. Thất Sát, Phá Quân giai chủ cô độc hình khắc, phá phôi lực đại. Thất Sát giác hữu mưu, Phá Quân bất cố hậu quả. Thất Sát giác bình tĩnh trầm ổn, Phá Quân giác hung bạo lỗ mãng. Thất Sát trong phá phôi thị kiến thiết tính, Phá Quân đích phá phôi thị vi phá phôi tính. Thất Sát cô độc do hoàn cảnh, Phá Quân đích cô độc tự kỷ tạo thành. Tử Vi đồng cung khả chế ước tha môn đích ác tính, cụ hữu kiến thiết tính; Tử Vi tại đối cung tắc chế ác lực lượng giác nhược, phùng hung cự hữu phá phôi tính.

Sát Phá Tham, Thất sát bày mưu tính kế, Tham Lang ra lệnh, Phá Quân xông trận. Tam tinh chủ khai sáng hòa biến hóa. Thất Sát đích khai sáng truy cầu sự nghiệp dục vọng; Thất Sát biến hóa đột nhiên, làm người trở không kịp, mà cải biến thường không hẳn liên quan tới nghiệp cũ, thường bắt đầu lại từ đầu, như cải hành, cải nghiệp.
Thất Sát tinh vi quá cương quá liệt chi tinh, kỳ hảo phôi tựu khán kỳ cương khắc đích trình độ, quá cương tắc dịch chiết, nghi âm nhu chi tinh chế hóa.

Thất Sát tại dần thân tý ngọ cung thủ mệnh, gia hội tả hữu xương khúc khôi việt quyền lộc đẳng cát tinh, đa đắc quý nhân, xã hội danh lưu đề huề, danh cao quý hiển. Nhưng tân lao thị phai tai thương bất miễn. Dần thân cung Giáp, Quý sinh nhân thượng cách, Canh sinh giác thứ; Tý cung dĩ Quý Kỷ sinh nhân thượng cạch, Giáp sinh nhân diệc cát; Ngọ cung Giáp sinh nhân thượng cách; Kỷ sinh nhân diệc cát, Đinh sinh nhân chủ phú nhi bất quý. Gia sát tắc phá cách, phản chủ hung họa(?).

Thất Sát tý ngọ, vô sát chủ hữu dũng hưu mưu, kiên cường cương nghị, hựu ngận cường đích thông ngự lĩnh đạo năng lực, khả độc đáng nhất diện, nhất sinh đa kỳ ngộ, định nhiên phú quý, nhưng bất miễn cô độc hình khắc cùng trải qua gian khổ. Đắc lộc, nhất là Tham Lang hóa Lộc tắc bất hội cô khắc nhi thành tựu phi phàm. Gia lục cát tinh, giảm thiểu cô khắc cùng gian nan, hữu uy quyền, khả chưởng đại quyền, nhưng vẫn phải trải qua gian nan. Gia hội tả hữu khôi việt, khả vi đại tướng; gia hội xương khúc, văn võ song toàn, phú quý. Gia hội sát kỵ, nhất là Vũ Khúc hóa Kỵ, càng cô khắc, đa ba chiết, thành bại khởi phục đa đoan, tai bệnh hình thương; Kình Dương đồng cung cô khắc tối trọng; sát hình kỵ tụ, nội tâm lo âu, trắc trở sau không phục hồi được, nếu không tàn tật, tất sẽ hung họa bên ngoài thương vong; nữ mệnh đa cảm tình ba chiết, hình phu khắc tử. Tý cung tam phương hội sát, trung vãn niên khốn đốn, thả phòng đầu hòa nịch thủy chi tai, bất ngi giang hồ hải tác nghiệp.

Thất Sát triều đẩu tại Dần với Thân, ngưỡng đẩu tại Tý với Ngọ có khác nhau, tùy theo vị trí miếu hãm của Thái Dương, Thái Âm mà định. Ví dụ tại Thân, Nhật Nguyệt lạc hãm, cuộc sống ắt bôn ba vất vả hơn tại Dần khi Nhật Nguyệt vượng địa. Tử Ngọ giả trọng sáng tạo, trọng phu thê, Dần Thân trọng kiên thủ, trọng viễn bá. Tử Ngọ đối vu Dần Thân, bỉ giác trọng thị sáng tạo phát minh. Nhi Dần Thân triều đẩu cách tương sáng tạo phát minh nã lai dụng.

Thất Sát tinh tính cường liệt, tất chủ quyền uy, trí dũng song toàn, thâm mưu viễn lự, phàm sự giai hữu chủ kiến, quyết bất manh tòng. Nhân thử, hữu ngận cường đích độc lập tính, khai sáng tính hòa quản lý năng lực, sự nghiệp tâm cực cường. Thất Sát tính cách cương cường, cảnh trực, bất uy gian khổ hòa ma nan, hữu kiên định đích tín tâm hòa nghị lực, sự tình nhất đán quyết định, tiện bất tài hồi đầu, tức sử kết quả thị thất bại đích (một khi đã quyết định sẽ không quay đầu cho dù kết quả thất bại). Đồng thì, Thất Sát cảm vu tiếp thụ các chủng các dạng đích thiêu chiến, cụ hữu tranh tranh thiết cốt, bất hội khí chủ cầu vinh, thị nhất cá điển hình đích ngạnh hán tử (không bán chủ cầu vinh, điển hình hán tử).
Cổ thư bình Thất Sát thị ác diệu, thị nhân vi tha đích tính chất quá vu cương cường, sở dĩ bất hợp quần, hữu thì thậm chí hội đắc tội nhân, lạc lạc quả hợp (tự nhiên khó hòa hợp), nhân thử thân cận đích bằng hữu ngận thiểu; đồng thì, Thất Sát hựu thị Tử Vi thân biên đích chủ soái, hữu thì hự nan miễn hữu “Tướng tại ngoại, quên mệnh hữu sở bất thụ” đích trạng huống ngộ sự nhu yếu tự kỷ quyết định, biến đắc độc đoạn độc hành, bất thính thủ tha nhân đích ý kiến; do vu Thất Sát thị thâm mưu viễn lự đích nhân, sở dĩ tại tư khảo vấn đề thì cố lự thậm đa, quyết định vấn đề thì nghi lự trọng trọng, hữu thì thậm chí hỉ nộ vô thường.

Thất Sát hỉ chư cát, năng cú đắc đáo dân chúng đích ủng hộ dữ chi viên, tại quốc vi đại tướng chi tài, tại thương vi lĩnh tụ nhân vật. Thất Sát tối hỉ dữ Tử Vi đồng độ, dữ Tử Vi, Thiên Phủ đối củng, chủ hữu quyền lực, hữu uy vọng; nhân vi văn vũ thù đồ, sở dĩ bất hỉ Văn Xương, Văn Khúc, Long Trì, Phượng Các đẳng diệu, chủ lưu ly phiêu đãng, cư vô định sở; như quả Thất Sát dữ Tử Vi hoặc Liêm Trinh đồng cung thì Văn Xương, Văn Khúc tắc năng gia kỳ ưu thế. Thất Sát hỉ kiến Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn, khải dĩ trừ khứ kỳ sát khí, hóa giải kỳ bạo lệ; bất hỉ kiến Tử Vi Hóa Quyền, nhân vi quyền lực chi khí thái trọng, phản nhi tương khắc, nhân tế quan hệ bất hảo; dã bất hỉ hội Hóa Kị, tước nhược Thất Sát đích tiến thủ tâm hòa tăng gia kỳ lao khổ.
Nhất bàn lai thuyết, Thất Sát tại nhập miếu thì bất phạ sát tinh, tức sử ngộ kiến sát tinh, bính tận toàn lực, dã khả tại lịch tận gian tân chi hậu, hữu sở thành tựu, đãn thị Thất Sát nhưng bất hỉ Kình Dương, Đà La, vưu kỳ thị tại “Trường Sinh” chi địa, tăng gia kỳ tinh tính trung đích “Cương” tính nhi canh vi bạo ngược, hành sự phách đạo, cương phức tự dụng, đương Thất Sát lạc hãm thì, tắc hoặc nhân tai họa tử vong, hoặc nhân tật bệnh tử vong, hoặc thị yêu chiết.

Gia Tử Vi, hữu trùng kính hữu quý khí, phách khí, đương nhiên khí vũ bất phàm, ngưỡng triều đẩu diệc như thị, phùng Tả Hữu, hữu nhân tương trợ, khả ổn định Thất Sát đích biểu hiện, phùng Khôi Việt, trường thượng duyến bất thác, phạ thị Thất Sát bất kiến đắc mãi đan, phùng Xương Khúc, khí chất dữ tài hoa kiêm cụ, bất quá nại tính tựu khả năng bất thậm lý tưởng, ngộ Hỏa Linh, trùng lực thập túc, bất quá tỳ khí khủng phạ bất thị nhất bàn nhiên năng tiêu thụ đích liễu, dã dịch chiêm tiền vong cố hậu, ngộ Lộc Tồn bất thác, khả dĩ cẩn thận nhất ta, nhân duyên dã giác giai, đã na trùng kính tương đối tựu tiểu liễu ta. Ngộ Kình, cương nghị quá nhân, ngộ Đà, tự ngã mâu thuẫn, ngộ Không Kiếp, phạ phấn đa sự bạch kiền liễu, hoặc bị mệnh vận đích chuyển luân, cao cao cư khởi, trọng trọng đích lạc hạ, nhược phùng thử diệu, khuyên chi tương nhân sinh đích hư danh hư lộc khán đạm, bất yếu cấp câp vu danh lợi truy cầu hoặc hứa giác hảo, nhược Thất Sát bị Lộc Mã giao trì, na yêu thị bất thị chủ lệnh Thất Sát canh vi hoạt bát, hoạt dược. Canh toàn lực dĩ phó địa đơn đả độc tấu. Đại thành đắc canh khoái, đại bại đắc dã khoái.
Mệnh Thất Sát tất Quan Lộc cung có Phá Quân, chủ một đời sự nghiệp không thuận, thời trẻ thường xuyên thay đổi công việc, sự nghiệp phát triển không ổn định, trung niên trở về sau, sự nghiệp có thể gây dựng được. Một đời không phù hợp với công việc mang tính đầu cơ mạo hiểm, dễ dàng rủi ro, nếu như kinh thương, cũng cần cẩn thận, tránh cùng người phát sinh tranh chấp liên quan tới tiền bạc.

Thế gian vạn vật, cương tắc dịch tổn, cho nên đối với Thất Sát, cổ thư đều nói là dễ dàng tàn tật chế non, cho nên xin khuyên tất cả bằng hữu mệnh Thất Sát cần chú ý cẩn thận nữa, không bao giờ là thừa cả, khi đắc ý cần suy ngẫm lại bản thân, có thể tránh được họa nạn. Thất Sát mười phần xung lực, cuộc đời cao trào phập phồng, có cơ hội hoành phát, nhưng cần phải thật chú ý hoành phá, hơn nữa, Thất Sát tọa mệnh có tràn đầy nhiệt tâm giúp đỡ người, điểm tốt này cần phải phát huy hơn nữa.

Thất Sát nhập mệnh, nhãn thần hữu lực, bất nộ tự uy, năng chưởng quyền. Yếu phán đoạn Thất Sát nhập mệnh năng phủ thành vi lương hảo cách cục, hữu nhất giản đan đích yếu quyết, tự thị quan sát kỳ nhãn thần. Thất Sát tinh thành cách thì chủ nhân nhãn Đới uy nghiêm, thần tình ổn trọng; nhi cách cục bát giai thì, đa nhãn đại vô thần, hoặc nhãn tương bất giai. Luận mệnh chi thì, khả do hình tướng chi đặc tính phối hợp lai khán, bang trợ phân biệt cách cục cao thấp.

Thất Sát nhập mệnh, tính tình quật cường, ngoại biểu quả quyết, đãn khẩu ngạnh tâm nhuyễn. Giá nhất điểm dữ Thiên Lương nhập mệnh bất đồng, Thiên Lương sở kiên trì đích thị tự kỷ đích nguyên tắc, bất luận nhâm hà hoàn cảnh, đô bất dịch chuyển biến; đãn Thất Sát sở kiên trì khước thị tự kỷ đích quyền uy, chích yếu biệt nhân thuận tòng tự kỷ đích ý kiến, hoặc dĩ ân nghĩa tương kết, tiện bất tái cố chấp kỷ kiến.

Đại phàm Thất Sát nhập mệnh, hữu nhị điểm tất nhiên đích ứng nghiệm: nhất, tất tu ly khai xuất sinh địa, phương năng hữu giác giai đích phát triển; nhị, nhất sinh trung tại sự nghiệp thượng tất hữu nhất thứ cực đại đích ba chiết biến hóa. Cho nên, tối kỵ đầu cơ thủ xảo. Một phần, Thất Sát nhập mệnh, đa hữu ba chiết.
Nhất bàn nhi ngôn, Thất Sát chủ vũ bất chủ văn, duy Tử Sát đồng cung ngộ Xương Khúc hội chiếu thì, khước năng văn vũ song toàn, cố khả hướng văn giáo giới phát triển. Thất Sát tối hỉ kiến Lộc Tồn cùng Hóa Lộc, năng ổn định cách cục, Tả Hữu Khôi Việt giai năng hữu trợ vu thành cách. Dương Đà Hỏa Linh tứ sát diệu, đối đại bộ phân tinh hệ giai hữu nhất định đích phá phôi lực, nhi Thất Sát bản thân tức Đới hữu sát khí, nhất ngộ tứ sát tịnh chiếu, cách cục tức lạc hạ cách. Bất luận tại mệnh hay hạn, ngộ sát tắc bất cát, hóa giải bằng cách tòng sự tiêu hao thể lực đích công tác, hoặc kinh thường yếu tiếp xúc kim chuc khí cụ đích công tác, dĩ cầu hóa giải Thất Sát đích sát khí, nhược tòng sự văn chức công tác, yêu cầu mỗi ngày bảo trì nhất định đích vận động lượng, nếu không tắc thân thể đa hữu bệnh tai.

Thất Sát tý ngọ, dần thân, thìn tuất hợp luận: Phi đẳng nhàn chi bối, hỉ trầm mặc độc xử, cô độc nhi lý trí. Tại tý, dần cung lập mệnh là “Thất Sát ngưỡng đẩu cách”, chủ thành tựu đại, đa đắc vu quý nhân chi đề huề, duy bất y tổ nghiệp. Đãn Thất Sát tại tý cung giác soa, hình thương trọng, tại dần, ngọ, thân cung sảo hảo. Dần cung kỹ thuật nhân giác đa; tại thìn tuất, hữu tòng sự doanh tạo sự nghiệp giả. Thất Sát tại ngọ, thân lập mệnh hội cát giả, vị chi “Thất Sát triều đẩu cách”, chủ chưởng quyền, nhất sinh tân lao, thủ tài, năng lực suy xét rất mạnh, có thiết kế, phân tích năng lực, sáng tạo độc đáo, độc đương nhất diện, thành tựu bất phàm, tòng sự kỹ thuật tính đích sinh sản công tác. Thất Sát tại ngọ, tố sự giảng nguyên tắc, hữu trí năng, thâm mưu viễn lự, tòng sự kỹ thuật hoặc trọng tân tổ hợp đích công tác. Gia hội Xương Khúc, vi lão bản, chủ quản giai tằng, tòng sự sản sinh sự nghiệp, hội Xương Khúc danh thanh hảo, hội Tả Hữu, năng thống ngự, Xương Khúc Tả Hữu hội toàn, danh vọng địa vị câu giai.
Thất Sát chủ thành bại, nhược thị Thất Sát ngộ Tả Hữu Lộc Tồn, chích năng thuyết lập vu bất bại, đãn thị yếu đại thành, khủng phạ đắc thì gian luy tích, phi nhất xúc khả cập. Thất Sát chân chính yếu đại phát, đắc khán tam phương Hóa Lộc hòa sát tinh, vưu kỳ tam phương hình thành Hỏa Tham Hóa Lộc lai chiếu hội. Nhược thị Thất Sát hội cát thậm đa bất hội sát tinh, vưu kỳ ngộ đáo Tả Hữu hội nhân vi quá độ ổn định, dữ Thất Sát tính chất tương bội, trở thành con người “nghĩ lại mà làm sau”, làm đâu chắc đó, nên tỷ lệ thất bại giảm mạnh, nhưng từ đó nội tâm cũng dễ mâu thuẫn, sinh trầm ngâm phúc bất vinh.
Vóc dáng người trung bình, tại Ngọ cung khá cao. Nam mệnh ngoại biểu ổn trọng, bất nộ nhi uy, thông minh năng kiền, chính trực vô tư, hữu chính nghĩa cảm, tâm trực khẩu khoái, cụ độc lập chi khí khái, cảm mạo hiểm, hữu nghị lực.

Hội Tử Vi, Lộc Tồn khả đắc bạo phát chi tài, chưởng sinh sát chi quyền, vi hùng tâm vạn trượng đích xí nghiệp gia, vi công thương giới lĩnh tụ, chức vụ giác cao.

Tòng sự hành nghiệp, quân cảnh giới, tư pháp, quản chế công tác (quản lý, kiểm soát), vận động viên, kiến trúc nghiệp, trọng công nghiệp, công trình kiến tạo nghiệp, ngoại khoa y sinh, đồ tể nghiệp, tang táng nghiệp, nông tràng, đánh chữ, thủ công nghệ, điêu khắc, địa lý, phong thủy sư.

(Nguồn: theo http://kiennd.com/)

Thiên Lương


Thiên Lương


Thuộc Thổ, Nam Đẩu đệ nhị tinh, hóa Ấm, sao chủ Thọ.

Thiên Lương tọa Mệnh, chủ người có vẻ ngoài ổn trọng khiêm nhường, từng trải, từ bi, gương mặt dài vuông, xương gò má cao, lưng hơi gù, hơi béo. Thanh tú, thông minh chính trực, là người chính trực không tư lợi. Hay lo chuyện thiên hạ, lấy việc giúp đỡ người làm vui, hay giúp đỡ những người kinh tế khó khăn. Quang minh lỗi lạc, gặp chuyện thì quyết đoán, xử lý việc luôn đứng trên lập trường công bằng, không thiên vị, thận trọng, có phong thái của người lớn tuổi, thường nhận được sự kính trọng của mọi người, thích khoe khoang, thường giúp người khác giải quyết tranh chấp, nhưng cũng gặp hiểu lầm, làm ơn mắc oán. Người có sao Thiên Lương nhập Mệnh thì tâm tính nhân nghĩa từ bi, có sự nghiên cứu và hứng thú với y học thuốc thang, đặc biệt có duyên bẩm sinh với trung y, đông dược, thuật số tôn giáo. Tính tình thanh cao, coi thường chuyện tiền bạc, đối với chuyện tiền bạc không quá tính toán chuyện được mất. Có tài cán, lòng dạ rộng rãi, có điều tính háo thắng, có dục vọng về quyền lực và dục vọng lãnh đạo, đa phần thường có vài phần ngạo mạn, vẻ mặt người ở trên cao, phẩm hạnh của người già. Tư tưởng chính thống, kiên trì với nguyên tắc, không chịu dễ dàng chấp nhận sai sót khuyết điểm của bản thân.

Nữ mệnh Thiên Lương, dung mạo đoan trang, mắt dài mũi thẳng, ôn hòa chính trực, sống trọng tình nghĩa, trong nhu có cương, nhiệt tình, thích giúp đỡ người khác. Nhập miếu hội cát tinh, nhiều tài nghệ, phú quý song toàn. Hội Xương Khúc, có tài hoa văn nghệ. Hội Tả Hữu, chính trực khoan dung trung hậu, giúp người làm vui, cùng chồng dạy dỗ con cái. Hội Dương Đà Hỏa Linh, cô khắc, rước thị phi, không thuần khiết.
Thiên Lương là Ấm tinh, đặc điểm là thích giúp đỡ, che chở người khác. Có chức năng chế hóa giải tai ách, chính vì vậy, cuộc đời người này cũng lắm nguy nan, có thể biểu hiện tác dụng chế hóa giải ách của Thiên Lương. Mệnh cung hoặc cung đối có Thiên Lương, chủ sống thọ, là sao cực tốt.
Thiên Lương thủ chiếu, cát tinh hội, cuộc sống phúc thọ.
Thiên Lương hội cát tinh tọa Di cung, là thương gia tài ba.

Thiên Lương miếu vượng, đồng cung với Thiên Cơ, học nhiều, quan tâm đến chính trị, giỏi văn võ, thích bàn chuyện binh tướng, có tài năng huyền học.
Thiên Lương, Thiên Đồng ở Mệnh Thân cung, không sợ hung nguy.
Thiên Lương miếu vượng, Tả Hữu Xương Khúc hội chiếu, số quan tướng.
Lương Đồng Cơ Nguyệt ở Dần Thân, một đời thông minh công việc thuận lợi (nhiều hung tinh không luận như trên)
Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn hội chiếu, danh tiếng bậc nhất lưu truyền.
Lương Dậu, Nguyệt Tỵ, là khách phiêu bồng.
Thiên Lương Văn Xương cư miếu vượng, vị trí quan trọng, tất là trưởng quan cấp cao, hoặc nổi danh trong giới giáo dục, đồng thời có tài viết lách, có hứng thú với những thứ cổ điển.

Thiên Lương Thiên Đồng cư Tỵ Hợi, nam phóng đãng, nữ đa dâm.
Thiên Lương Thiên Mã hãm, chắc chắn phóng đãng phiêu du (An Mệnh Tỵ Hợi Thân cung, Thiên Lương hãm, Thiên Mã đồng cung cũng vậy)
Thiên Lương hãm địa, hội Dương Đà, là kẻ làm bại hoại thuần phong mỹ tục.
Thiên Lương hãm địa, hội Hỏa Dương phá cách, hạ tiện nghèo khó chết yểu.

Nữ mệnh Thiên Lương hãm địa, dâm mà nghèo.
Thiên Lương là sao thanh cao, cũng không chủ phú, cái phú này đa phần đến từ “quý”, có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc đồng cung, tuy có thể đạt được nhiều lợi nhuận, nhưng thường khốn đốn, hào nhoáng mà không thực. Nên sách có viết: “Lộc ngộ Lương Ấm, bão tư tài ích dữ tha nhân”, đa phần dùng tiền vật giúp đỡ người khác, rất thích hợp làm công việc từ thiện.

Thiên Lương Hóa Quyền, có quyền bính thao túng, chủ làm nhiệm vụ nắm hình pháp, có đại quyền sinh sát.

Thiên Lương Hóa Khoa, cực cát, học tập ưu tú, thi cử thuận lợi lớn, nổi danh, có số quan.
Thiên Lương nhập Mệnh, đa phần làm công chức, là người làm nhà nước, quan chức nhân viên chính phủ, bác sĩ, dược sĩ, giáo viên, quản lý, cố vấn, quan tư pháp, nhà văn hóa, nhà báo, nhà từ thiện, viên cảnh…

Thiên Lương ở Tý Ngọ
Thiên Lương nhập Mệnh, đối cung là Thái Dương. Người không cao, hơi béo. Người Mệnh này có thể sống lâu, nếu cùng Thiên Đồng thủ Thân thì cả đời không sợ hung nguy. Thiên Lương kinh doanh không quá thuận lợi, thích hợp làm chính trị, làm nhà nước rất có phát triển, nhưng đa phần lời nói thẳng không kiêng dè, khiến người khác hiểu nhầm, hoặc bị kẻ tiểu nhân hãm hại. Đồng cung Văn Xương Văn Khúc, có số làm quan, địa vị không nhỏ. Hội chiếu với Văn Xương, Lộc Tồn, thông minh hơn người, học rộng nhớ lâu, thành tích học tập tốt, thi cử đỗ đầu, có thể một bước mà thành danh.

Người sinh năm Đinh Kỷ Quý hợp cách, nhiều cát tinh củng chiếu thì cuộc sống phúc thọ song toàn. Người sinh năm Đinh, Lộc Tồn tại Ngọ, cung Tài Bạch có Thái Âm Hóa Lộc, Thiên Cơ Hóa Khoa, cung Quan Lộc Thiên Đồng Hóa Quyền, là cách “Song lộc triều viên”, “Khoa quyền lộc tam kì”, là quý cách, chủ đại phú đại quý, danh tiếng nổi khắp thiên hạ. Người sinh năm Kỷ, Lộc Tồn tại cung Ngọ, Mệnh cung Thiên Lương Hóa Khoa, danh tiếng vang xa, là quan thanh bạch chính trực. Người sinh năm Quý Lộc Tồn ở cung Tý, cung tài bạch Thái Âm Hóa Khoa, phú quý phi thường. Ba kiểu người trên nếu như được Phụ Bật Xương Khúc hội chiếu, là số quan tướng, chúa tể một phương. Người sinh năm Ất, Thiên Lương Hóa Quyền, Thiên Cơ Hóa Khoa, Khôi Việt hội chiếu, hội Tả Hữu Xương Khúc, cũng là số đại quý. Thiên Lương tại Ngọ hội cát tinh, là cách “Thọ tinh nhập miếu”, sự nghiệp tiền bạc vinh hiển.

Thiên Lương tại Sửu Mùi
Thiên Lương vượng, đối cung là Thiên Cơ. Thân Mệnh cung như vậy có thể sống thọ. Là người từ bi đại lượng bác ái, ổn trọng, làm việc cẩn thận, nhiệt tình với sự nghiệp công ích, làm chính trị, nhà nước thì tốt, không hợp kinh doanh, làm ông chủ.
Tả phụ Xương Khúc hội chiếu, là số quan tướng. Xương Khúc đồng cung, xuất thế vinh hoa, là nhân vật quan trọng. Được Phụ Bật Xương Khúc ở cung kế bên giáp cũng là quý cách. Văn Xương, Lộc Tồn hội chiếu, sự nghiệp cực đẹp, thi cử đỗ đầu.
Người sinh năm Mậu, tọa quý hướng quý, Thái Âm Hóa Quyền, là số đại quý. Người sinh năm Ất, Mệnh cung Thiên Lương Hóa Quyền, đối cung Thiên Cơ Hóa Lộc, người sinh năm Nhâm, Thiên Lương Hóa Lộc, hội Lộc Tồn ở cung Hợi, Mão, chủ người phú quý song toàn, cát tinh hội chiếu thì cuộc sống phúc thọ.
Dương Đà Hỏa Linh đồng cung, gian trá, vẻ ngoài quân tử bên trong tiểu nhân, có hành vi lừa bịp, ít thì lừa tiền lừa tài sản, nhiều thì chiếm giữ quyền lực chính phủ. Thiên Lương tại Sửu, Nhật Tỵ Nguyệt Dậu đều sáng, không hội sát tinh, người sinh năm Ất Bính Mậu Tân phú quý song toàn.

Thiên Lương tại Dần Thân, Thiên đồng đồng cung
Thiên Đồng tại Dần Thân, Thiên Lương đồng cung. Cung Tài bạch, Quan Lộc hội Thái Âm, Thiên Cơ, là cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, có thể là quan lại, chủ nổi danh nhờ văn vẻ, đơn từ. Hai cung Dần Thân có Thiên Mã, tất thường chuyển nhà, rời xa quê hương, lập nghiệp nơi đất khách. Là người ổn trọng, nhiệt tình, trực tính, hào sảng, giao du rộng, rất biết cách làm việc, tinh thần dồi dào, tính tình hoạt bát, hiếu động.
“Phúc ấm tụ, bất phạ hung nguy”, hai sao trên đồng cung, một đời hay gặp hung hóa cát, gặp dữ hóa lành, chủ sống thọ. Người sinh năm Giáp Ất Đinh Kỷ Canh, phúc dày, cát tinh hội chiếu, cuộc sống phúc thọ song toàn. Hội Tả Hữu Xương Khúc, chủ quý hiển.

Đồng cung Lương ở Dần Thân, đa phần có sở trường kĩ nghệ, danh tiếng bên ngoài, làm việc ở nhưng cơ quan, tổ chức tương đối ổn định, thường kiêm vài nghề, hội cát tinh có quan vận, thu được danh lợi.
Không hội cát tinh mà hội sát tinh, phiêu bạt, một đời hư danh hư lợi, tính tình gian dối. Đà la đồng cung, béo, mắt không đẹp, tính tình cực đoan, là người làm bại hoại thuần phong mỹ tục.

Thiên Lương tại Mão Dậu, Thái Dương đồng cung
Là cách “Nhật chiếu lôi môn”, “Nhật xuất phù tang”, chủ người quang minh lỗi lạc, chính trực hào sảng, tư tưởng chính thống, có lúc cứng nhắc, dám đấu tranh với thế lực hung ác, đối xử với mọi người chân thành, nhiệt tình. Người sinh ban ngày, phú quý vinh hoa, hội nhiều cát tinh thủ chiếu tất đại quý. Người sinh năm Giáp Canh hội Kình Dương, chủ khó khăn, duyên với cha mẹ bạc, một đời không thuận lợi. Người sinh năm Ất Tân Nhâm, phú quý song toàn. Người sinh năm Ất, Lộc Tồn tại Mệnh cung, Thiên Lương Hóa Quyền, Hóa Lộc tương phùng; người sinh năm Tân, đối cung có Hóa Lộc, cung Mệnh Thái Dương Hóa Quyền; người sinh năm Nhâm, Lộc Tồn ở Hợi, cung Mệnh Thiên Lương Hóa Quyền, đều là bậc tài năng trụ cột đất nước.
Nhiều cát tinh thủ chiếu chủ một đời phúc thọ. Nếu hội Xương Khúc Khôi Việt, sớm gặp mây xanh mà đắc chí. Hội Xương Lộc, cái thế văn chương, thi cử hơn người, vinh danh bảng vàng. Nữ mệnh không có sát tinh đồng cung thủ chiếu thì đoan chính, sớm lấy được chồng hiền lương. 
Mệnh cung tại Dậu, vô chính diệu, đối cung là Thái Dương Thiên Lương, chủ sống thọ. Là người tính tình ôn hòa, ổn trọng, biết nhẫn nại, có thể trở thành thương gia tài ba hoặc nổi danh với đời nhờ kĩ nghệ, người tuổi Ất Bính Tân Nhâm phú quý.

Thiên Lương tại Thìn Tuất, Thiên Cơ đồng cung
Là người trí tuệ sung mãn, có kĩ nghệ tùy thân, tức có tài năng đặc biệt hay sở trưởng chuyên môn, là người “Công hàm mặc, thiện đàm binh, tất hữu cao nghệ tùy thân”. Dễ thành danh trong giới y học, pháp luật hoặc học thuật nào đó. Là người hiếu khách, đối xử với mọi người ôn hòa từ bi, nhiệt tình. Hay tính toán, suy nghĩ rất nhanh, thích biện luận, giỏi ăn nói, ngôn ngữ không thô tục, chủ đề bàn luận phong phú, thích phát biểu ý kiến về chính trị, bàn luận về việc đại sự trong thiên hạ, có lúc đắm chìm trong cái hào hoa mà không thực tế. Nếu như hội Tả Hữu Xương Khúc, theo văn thì là người thanh bạch quý hiển, theo võ thì là bậc trung lương, phú quý, đối đãi với người tư bi. Nếu đồng cung hay hội Kình Dương, khi trẻ hình khắc với lục thân, về già cô độc, cốt nhục vô tình, hoặc phân ly. Hội Dương Đà và không vong thủ chiếu, lục thân duyên bạc, thích hợp xuất gia, hoặc làm việc nghiên cứu học thuật như triết học, tôn giáo, chiêm bậc…
Hội Hỏa Linh, giảo quyệt, tính tình cuồng ngạo, hội tứ sát thì tâm thuật bất chính, gia cát tinh là vương, nếu không có cát tinh thì là cướp. Người sinh năm Ất gian trá, lại hình khắc. Người sinh năm Mậu Thiên Cơ Hóa Kỵ, hội Dương Đà, đặc biệt nhiều phiền não, tâm thần bất an, mơ hồ, cả đời không thuận. Người sinh năm Nhâm đa hư thiểu thực.

Nữ mệnh thường hay tính toán, đối xử với người khác quá khách khí, có lúc nhu nhược thiếu quyết đoán.

Thiên Lương tại Tỵ Hợi
Hãm địa độc thủ, đối cung là Thiên Đồng. Người đời đánh giá không cao, không hội cát tinh, thành tựu không lớn, đa phần là số bần tiện. Người sinh năm Ất Bính Mậu Nhâm, nhiều cát tinh hội chiếu cũng có phú quý, sự nghiệp này tất phấn đấu trong gian khổ khó khăn, ban đầu có sự phát triển khá lớn, một đời vất vả dị thường. Là người quá nhiệt tình, chuyện gì cũng suy nghĩ quá nông cạn, là người tính tình thanh cao, bản thân không có học vấn nhưng có lúc lại có tinh thần coi thường tiền bạc như cỏ rác. Khảng khái, thiếu quan niệm tiền bạc, không giỏi quản lý tiền. Tính tình khác lạ, hiếu thắng, thích khoe khoang. Tưởng ai cũng mê mình, làm dâu trăm họ, có lúc bỏ công sức mà chả được gì, một đời thường bị hiểu nhầm.
“Thiên Lương Thiên Mã hãm, phiêu đãng vô nghi”, Nam mệnh nếu có cát tinh thì chủ rời xa quê hương có sự phát triển, nếu không có cát tinh thì du đãng, có khuynh hướng không làm việc chính đáng, thường xuyên chuyển nghề, thậm chí lưu lạc tha hương. Hội đào hoa tinh thì chơi đùa trác táng, háo sắc đa dâm.

Nữ mệnh gặp các sao như trên thì đa dâm, tình cảm không chuyên nhất, có thể tránh cảnh tư tình với người, không hội cát tinh tất là số nghèo. Nữ mệnh nên làm vợ hai, vợ kế, lấy người đã từng kết hôn hoặc cưới người từng ly hôn. Nếu hội Dương Đà hoặc đồng cung thì là kẻ làm bại hoại thuần phong mỹ tục, hoặc nghiện. Hội Dương Đà và các sát diệu vây, đa phần hạ tiện,l àm các công việc địa vị không cao. Hội hay đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh thì hạ tiện, cô quả, chết yểu, một đời hay tai họa vất vả, thậm chí vi phạm pháp luật kỷ cương, bạo bệnh mà chết. Đà La đồng cung, tất có tai họa tù nguc. Thiên Mã đồng cung, chắc chắn du đãng, cả đời bôn ba, hội sát tinh, chết ở đất khách. Không Kiếp đồng cung, hoặc hội chiếu hoặc giáp Mệnh, nghèo không tích lũy được gì, một đời không may mắn, cơ hội gõ cửa đều bị bỏ lỡ.

THIÊN LƯƠNG phụ chú:
Thiên Lương tinh đích quý thị tinh tính thanh cao, bất hỉ danh lợi quyền thế, bất ái dữ nhân phát sinh tranh chấp. Vô luận ngoại tại hoàn cảnh như hà phân phồn phức tạp, tha nhân như hà tranh quyền đoạt lợi, tự kỷ đô năng an vu du nhàn, thanh cao đích hoàn cảnh trung, bất vi sở động, bất dữ nhân cạnh tranh. Đối vu nhâm hà sự tình (đối với bất cứ chuyện gì) đô năng (đều có thể) bình công bạn sự (hành xử theo lẽ công bằng), nguyên tắc tính cường, cảnh trực vô tư, tâm địa thiện lương, tố hảo phân nội chi sự, nhân nhi đắc đáo phúc ấm, bị thụ quý nhân tương trợ, tòng nhi hoạch đắc thành tựu, thụ nhân tôn trọng.
Thiên Lương tinh tính chất đặc biệt, cư Mệnh hoặc Thân cung giả, đô chủ phùng hung hóa cát, ngộ nan trình tường, tương tai họa hóa giải. Nhân thử nhất sinh đa tai nạn hoặc phi thường đích tao ngộ. Đồng thì, do vu thử tinh thanh cao, bất hỉ tiền tài, sở dĩ thử chủng loại hình đích nhân tối kỵ tự lực kinh thương, bất thiện vu xử lý kim tiền, dĩ miễn nhân tiền tài nhi sản sinh kinh hiểm hòa ba chiết, đồ tăng phiền não, bội thêm tân lao.

Thiên Lương tinh tọa mệnh thân cung, chủ nhân bản tính tâm cao khí ngạo, hỉ hoan quá một hữu áp lực, khinh tông đích nhật tử, du nhiên tự đắc, đối vu tự kỷ nhân vi một hữu tất yếu truy cầu đích sự. Thử tinh đặc hỉ cát tinh, đồng cung hoặc giả hội chiếu lục cát tinh, ngộ khốn nan giác dịch hỏa giải; đối lục sát tinh tuy hữu để kháng, dã hội sử kỳ bội tăng tân lao, mang vu hóa giải khốn nan. Nhược chích hữu sát tinh hội chiếu, khuyết thiểu cát tinh tương trợ, tắc kinh hiểm tòng sinh, nan vu hóa giải.
Nhất bàn nhi ngôn, Thiên Lương bát hỉ kiến Lộc, nhân Thiên Lương thị thanh ấm chi diệu, tựu tượng cổ đại đích ngự lại, chuyên ti đạn hoặc chi chức, nhược kiến Lộc Tồn Hóa Lộc, tắc hữu như tự thân tham ô. Giá thì tiện hội đa vô vọng chi tai (tai bay vạ gió), hoặc thụ nhân phê bình, hoặc bị nhân vô đoan ám hại, lộng chí đâu quan bãi chức. Sở dĩ thập kiền hóa lộc trung, dĩ Thiên Lương hóa lộc tối vi bất lợi, đãn diệc hữu ta thù lệ ngoại đích tình hình, trừ khi tham gia các công việc làm công ăn lương, bận rộn mà hưởng lộc.
Thử diệu nhập mệnh giả, lợi vu nỗ lực tranh thủ giác cao đích học lịch (bằng cấp), tòng sự nhất ta chuyên nghiệp đích kỹ thuật cứu lai phát huy Thiên Lương đích đặc tính.
(nguồn: theo http://kiennd.com/)